- Đang online: 1
- Hôm qua: 220
- Tuần nay: 12115
- Tổng truy cập: 3,278,384
Mỗi con cháu hậu duệ nhà Mạc, gốc Mạc nên hướng về cội nguồn tri ân tiên tổ
- 913 lượt xem
Mỗi con cháu hậu duệ nhà Mạc, gốc Mạc nên hướng về cội nguồn tri ân tiên tổ
( Đại tá Nguyễn Quang Tuyến Chi họ Nguyễn gốc Mạc xã Hiệp An, huyện Kinh Môn HD)
( ngày 18/3/2013 – tức ngày 7/02/âm lịch năm Quý Tỵ ).
———————@——————-
Vào dịp này, trong 3 ngày 9;10;11 tháng 2 âm lịch năm Quý Tỵ (tức là ngày 20;21;22 tháng 3 năm 2013 ) chuẩn bị cho lễ hội truyền thống mùa xuân tại Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ở thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Đây là một hoạt động văn hóa tâm linh truyền thống tích cực, nó khắng định sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn tôn tạo và phát huy các giá trị to lớn bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc của Đảng và Chính phủ theo tinh thần Nghị quyết của Đảng. Đặc biệt năm 2013 là năm hưởng ứng “ Năm du lịch văn hóa quốc gia vùng đồng bằng sông Hồng ”. Trong các lễ hội vùng đồng bằng sông Hồng nói chung, có các lễ hội là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia được thờ các danh nhân văn hóa tiêu biểu của Nhà Mạc nói riêng được nối tiếp tổ chức ngay trong lễ hội mùa xuân 2013.
– Đầu tiên là ngày 6 tháng giêng âm lịch năm Quý Tỵ đã tổ chức Lễ Khai bút tại Khu Đền thờ các Vua Nhà Mạc ở Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng được lãnh đạo UBND thành phố, Sở Giáo dục, Sở Văn hóa Thông tin, các Sở, Ban, Ngành khác, UBND huyện Kiến Thụy, và các cơ quan chức năng của huyện, cùng với sự cộng hưởng tích cực của các trường phổ thông tiêu biểu có nhiều thành tích xuất sắc trong giảng dạy và học tập của thành phố đã về dự. Trong đó đã tổ chức thành công lễ hội với quy mô lớn trong 3 ngày rất khang trang trọng thể, thu hút hàng chục ngàn người từ khắp mọi miền của đất nước đến dự ( trong đó có các đoàn đại biểu HĐMT Việt Nam, HĐMT Hà nội, Hải Dương, Hải Phòng, và còn có đoàn đại biểu tận trong thành phố Hồ Chí Minh do ông Mạc Văn Tuyết Phó Chủ tịch HĐMT là trưởng đoàn… ) . Điều đáng ghi nhận ở lễ hội này là một hoạt động văn hóa, nhằm tôn vinh truyền thống hiếu học, trọng tài của Nhà Mạc, chẳng thế mà dân gian còn lưu truyền, truyền thống hiếu học, trọng học của Nhà Mạc là: “ Mạc Thị Sùng nho ”. Đồng thời với truyền thống khuyến học, trọng tài của Nhà Mạc, nếu chỉ tính riêng 65 năm nhà Mạc cầm quyền ở Kinh thành Thăng Long đã tổ chức được 22 khoa thi lấy đỗ 485 tiến sỹ, trong đó chọn ra được 13 Trạng Nguyên. Trong đó có những Trạng Nguyên rất nổi tiếng của mọi thời đại như: Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Thiến, Dương Văn An…Trong truyền thống khuyến học, trọng tài của Nhà Mạc còn thể hiện ở tư tưởng cởi mở trong giáo dục và đào tạo, không trọng nam, khinh nữ như các chế độ phong kiến trước đây. Đặc biệt Nhà Mạc đã tuyển dụng tiến sỹ nữ ( là tiến sỹ nữ đầu tiên và có lẽ là cuối cùng trong chế dộ khoa cử phong kiến ) là bà Nguyễn Thị Duệ người làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh Hải Dương đã giả trai đi thi và đã đỗ Tiến sỹ được Nhà Mạc bổ dụng làm lễ nghi học sỹ ( chuyên dạy phi tần mỹ nữ trong cung ) . Nếu như không có tư tưởng tiến bộ của nhà Mạc, trọng dụng hiền tài là nguyên khí quốc gia, thì bà Nguyễn Thị Duệ và gia đình đã phạm tội khi quân phải truy di tam tộc.
– Kế tiếp lễ hội Khai bút tại Vương Triều Mạc là lễ hội truyền thống mùa xuân tại Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ở thôn Long động, xã Nam tân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trong đó Hải Dương được xác định chính thức qua nhiều tư liệu lịch sử đây là: quê hương của gốc tổ nhà Mạc đã có từ hàng ngàn năm nay. Nơi đây trong Đền thờ Long Động hiện nay đang thờ 3 Trạng Nguyên Nhà Mạc. Trong đó nếu chỉ tính từ cụ: Mạc Hiển Tích Thủy tổ Hồng phúc Đại vương được vinh danh ( đỗ đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ nhất danh năm 1086 thời vua Lý Nhân Tông- tương đương trạng nguyên các khóa thi sau ) và vua Lý Nhân tông bổ nhiệm là Thượng thư Bộ Lại thì đã 927 năm nay. Hải Dương còn là quê hương của Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa chống quân xâm lược phương bắc, để xây nền độc lập trong 1000 năm Bắc thuộc. Nơi đây còn có Kiếp Bạc, Côn Sơn đây truyền thống vinh quang, kháng chiến cứu nước, sấm đường 5 quê ta kiên cường. Đồng thời Hải Dương xứ Đông còn là nơi địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống văn hiến, khoa bảng lẫy lừng như: Làng tiến sỹ Mộ Trạch, Văn miếu Mao Điền ( nơi tổ chức khóa thi đình lấy đỗ Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 1535 ), và Đền thờ Chu Văn An, Đền thờ tiến sỹ Nguyễn Thị Duệ, Chí Linh bát cổ….
Những ngày này con cháu hậu duệ Nhà Mạc ( gốc Mạc) trên toàn quốc, cùng với quý khách thập phương lại được về dâng hương lễ tổ và tưởng niệm 667 năm ngày tạ thế của Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi , để tỏ lòng thành kính, tri ân công đức to lớn của người đối với đất nước, với dân tộc, tại đền thờ Đức Viễn Tổ kiến thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế, Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, là danh nhân văn hóa kiệt xuất, nhà ngoại giao lỗi lạc, kỳ tài của đất nước. Điều đó làm cho mỗi con cháu hậu duệ Nhà Mạc ( gốc Mạc ) rất phấn khởi tự hào về truyền thống vinh hiển hào hùng của dòng họ Mạc, và truyền thống hiếu học của quê hương đất tổ nhà Mạc, truyền thống của Hải Dương- Xứ Đông anh hùng kiên cường bất khuất trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Trong năm 2010 tại thôn Long động, xã Nam Tân, Nam Sách, Hải Dương công trình đền thờ “ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ” cũng được Nhà nước đầu tư dự án với quy mô khang trang bề thế. Hiện nay đã cơ bản hoàn thiện giai đoạn 1 để tri ân công lao to lớn đối với đất nước với dân tộc của Viễn tổ Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế “ Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ”. với phẩm hàm cao nhất Triều vua Trần Minh Tông là Đại liêu Ban tả Bộc xạ ( tương đương Tể Tướng ). Hiện nay trong đền thờ “ Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi ” của chúng ta đang thờ 3 vị Trạng nguyên họ Mạc là các cụ: Mạc Hiển Tích ( đỗ năm 1086 ) , Mạc Kiến Quan ( là em cụ Mạc Hiển Tích- cụ Mạc Kiến Quan đỗ năm 1089 ) , Mạc Đĩnh Chi ( là cháu 7 đời của cụ Mạc Hiển Tích– Cụ Mạc Đĩnh Chi đỗ năm 1304 ) .
+ Như vậy dòng họ Mạc rất vinh dự tự hào về văn chương khoa cử, danh kế, thế truyền đã lừng lẫy một thời, không thua kém bất cứ dòng họ mạnh nào khác.
Tiếp tục kế thừa truyền thống vinh hiển của tổ tiên là Cụ Mạc Đăng Dung (1483-1541) đỗ Trạng nguyên về võ ( Đô lực sỹ xuất thân năm 1506) , đời vua Lê Uy Mục. Cụ có sức khỏe phi thường, với võ công tuyệt đỉnh, cùng tài năng mưu lược xuất chúng của mình, Cụ là người anh hùng lập thân trong thời loạn ( Trong đó có thanh đại bảo đao báu vật của cụ Mạc Thái Tổ là minh chứng sống động nhất, hùng hồn nhất đến nay đã được trên 500 năm, kích thước dài 2,55m. Nay tuy đã han rỉ nhiều, mà vẫn còn cân nặng 25,6 kg, đang được thờ tại thánh điện Khu tưởng niệm Vương Triều Mạc. Trên thế giới đến nay chỉ còn 2 báu vật đặc biệt là: Thanh đại long đao của Tống Thái Tổ nhà Bắc Tống và Thanh đại long đao của Mạc Thái Tổ ở Việt Nam . Cụ đã tận tụy phục vụ 5 đời vua Lê giúp nước, cứu dân ( Lê Uy Mục, Tương Dực, Quang Trị, Chiêu Tông, Cung Hoàng) dẹp loạn được nhiều phe phái như: đánh được Lê Do, Trần Thăng, Cù Khắc xương, Lê Bá Hiến, Trịnh Tuy, dụ hàng Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc, và các phe phái khác chống lại triều đình nhà Lê trong 1 thời gian dài ( từ 1507-1526 ). Trong thời gian ngắn 20 năm bằng tài năng thao lược thực sự của mình, Cụ Mạc Đăng Dung lần lượt được thăng tiến rất nhanh từ: Đô chỉ huy sứ vệ thần vũ ( 1508), Vũ xuyên Bá, rồi thăng Đô đốc ( 1518) ; Tiết chế doanh thủy, lục quân 13 đạo ( 1520), Thái phó Nhân quốc công ( 1521) . Đồng thời cụ được vua Lê ban cho chức quan cao nhất trong triều là Thái sư An Hưng Vương ( 1527 ) ( nếu không bằng tài năng thực sự của mình, thì một người xuất thân từ dân thường như Cụ không thể thăng tiến nhanh đến như vậy ) . Như vậy Cụ chắc chắn phải là người có thực tài, và cũng rất có thực tâm, để tận tâm phục vụ triều đình nhà Lê, những mong triều đình đó mang lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Còn nếu không thực tâm, thì chính lúc vua Lê Chiêu Tông vời Nguyễn Hoằng Dụ ra giúp để dẹp loạn thì Nguyễn Hoằng Dụ không ra giúp, mà chính cụ Mạc Đăng Dung lại ra giúp vua, đấy là tâm của người cầm quân ăn lộc triều đình nhà Lê của cụ. Còn nếu cần chiếm ngôi thì Cụ Mạc Đăng Dung đã chiếm ngay từ khi vua Lê Chiêu Tông bỏ kinh thành chạy vào Thanh Hóa năm 1524, chứ không phải đợi đến lúc vua Lê Cung Hoàng ban chiếu nhường ngôi cho cụ ( 6/1527 ). Để đánh giá vấn đề này ta cần phải xem xét bối cảnh lịch sử 25 năm đầu của thế kỷ 16 theo đánh giá GS Văn Tạo Nguyên Viện Trưởng Viện sử học là thời kỳ “ khủng hoảng cung đình” như sau: Trong khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XVI xảy ra khủng hoảng cung đình đã phải thay tới 4 đời vua ( Uy Mục, Tương Dực, Quang Trị, Chiêu Tông ) khi đó đất nước ta không còn cảnh thái bình Đức lớn công cao như núi Thái Sơn của vua Lê Thái Tổ có công đánh đuổi giặc Minh, giành độc lập tự do cho tổ quốc. Đồng thời cũng không còn cảnh thái bình thịnh trị như thời vua Lê Thánh Tông tài năng và đức độ. Trong khi ra làm quan cho nhà Lê, cụ Mạc Đăng Dung đã tận tâm phục vụ Triều Lê, với mong muốn xây dựng Triều Lê ngày một tốt đẹp hơn, để mang phúc cho dân. Nhưng Triều Lê lúc này chính sự đã quá mục ruỗng, thối nát, như cỗ xe phi nước đại, lăn xuống vực, không sao cản nổi. Như vậy trong bối cảnh lịch sử thời kỳ đầu thế kỷ XVI nhà Lê khi ấy đã suy tàn: vua quỷ, vua lợn ăn chơi hoang dâm vô độ.v.v…vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, làm cho dân chúng lầm than khổ cực. Vì vậy sự cần thiết tất yếu khách quan đất nước Đại Việt phải có một “ Minh Quân mới ” để gánh vác trọng trách quốc gia, lo cho giang sơn xã tắc. Vì vậy rất cần thiết phải đánh đổ triều đại cũ thối ruỗng, mục nát, để xây dựng một triều đại mới tiến bộ hơn, dân chủ hơn, để bảo vệ non sông xã tắc và mang lại ấm no tự do hạnh phúc cho muôn dân. Trong bối cảnh khủng hoảng cung đình đó, Cụ Mạc Đăng Dung là ngôi sao sáng nhất, vĩ đại nhất, hội tụ đầy đủ cả tâm, đức, tài, trí thời bấy giờ. Cụ được đa số quan, quân triều đình ủng hộ và thần dân tin yêu. Đồng thời vua Lê Cung Hoàng khi đó đức mỏng, tài mọn, gánh vác không nổi mệnh trời, đã tuyên chiếu nhường ngôi vua cho Cụ Mạc Đăng Dung ( tháng 6/1527). Bài chiếu nhường ngôi Vua cho Cụ như sau: “ Thiên hạ lúc ấy đã không phải là của nhà ta. Ta không có đức, gánh vác không nổi. Mệnh trời, lòng người đều theo về người có đức. Xét người là Thái sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung, có tư chất duệ trí, tài lực văn võ, ngoài đánh bốn mặt, các phương phục tòng. Trong cõi trăm quan, mọi việc đều tốt, công to đức lớn, trời cho người theo. Nay theo lẽ phải, nên nhường ngôi cho. Nên cố sửa đức, cần giữ mệnh trời, để yên dân chúng. Mong kính theo đó ” .
– Như vậy việc thay thế một triều đại phong kiến nhà Lê khi đó đã suy tàn này, bằng một triều đại mới là nhà Mạc tích cực hơn, tiến bộ hơn như đánh gía khách quan của GSVS Viện hàn lâm Phan Huy Lê Chủ tịch Hội KHLSVN năm 1994 như sau: “…Nên xóa bỏ những thành kiến và định kiến về Nhà Mạc. Nên đối xử với nhà Mạc một cách công bằng hơn như các triều đại khác, Hãy trả lại cho nhà Mạc những đóng góp khách quan… Nhà Mạc là một Vương triều ra đời và tồn tại sau nhà Lê. Việc nhà Lê sụp đổ, nhà Mạc lên là một hiện tượng có ý nghĩa tiến bộ, được nhiều người ủng hộ. Không nên coi việc này là cướp ngôi. Sau khi ra đời và tồn tại nhà Mạc đã có nhiều đóng góp nhất định về mặt văn hóa, về mặt tư tưởng và một phần nào đó về mặt kinh tế.v.v…” .
– Ngay GSVS Viện hàn lâm Vũ Khiêu – Anh hùng lao động cũng đã có những đánh gía rất công bằng: “ Lịch sử đã ghi lại nhiều bằng chứng nói lên công lao to lớn của Mạc Đăng Dung cả trước và sau khi ông lên ngôi vua. Từ khi ông lên ngôi vua, triều đại của ông đã giúp cho sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, đem lại đời sống ấm no cho nhân dân. Thủ công nghiệp được phát triển, nhất là đồ gốm, đồ dệt. Trật tự an ninh được đảm bảo, không có người cầm giáo mác binh khí đi ngoài đường. Không còn trộm cướp, người đi lại buôn bán được an toàn. Trâu bò chăn thả không phải mang về”; “ Nhìn lại tư tưởng và việc làm của Mạc Đăng Dung ta thấy ông xuất hiện như một bông hoa xuyên tuyết, chọc thủng lớp dày băng gía mùa đông, để đón chào mùa xuân của đất nước”.
– Chính GS Văn Tạo nguyên Viện trưởng Viện sử học đã khẳng định: “…Toàn bộ công tích của nhà Mạc cống hiến cho dân tộc đã được sử sách ghi chép. Riêng công trạng Mạc Đăng Dung có thể tóm tắt như sau: Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều đình đổ nát, kinh tế suy sụp, dân tình cực khổ. Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia, cát cứ, lên ngôi, tạo dựng cơ nghiệp, cho con cháu nối đời, góp phần ổn định đời sống xã hội, xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt: Kinh tế, văn hóa, xã hội trong hơn nửa thế kỷ. Xét về sự nghiệp dựng nước thì bao giờ cũng “ Vạn sự khởi đầu nan ”, công lao đó thuộc về Mạc Đăng Dung. Nói tóm lại, với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có nhiều cống hiến nhất định vào lịch sử dân tộc. Công lao sự nghiệp của Mạc Đăng Dung đối với nhà Mạc là lớn lao và sự nghiệp dựng nước của nhà Mạc đã được sử sách ghi nhận. Hậu thế chúng ta cần trân trọng và phát huy ”.
– Ngay cố GS Trần Quốc Vượng ĐHQG Hà Nội cũng đã có những đánh giá tích cực, công bằng về nhà Mạc:“… Không nên chỉ nhìn nhận và đánh giá sự nghiệp nhà Mạc qua những gì sử thần nhà Lê viết. Triều đình Lê – Trịnh đối địch với triều Mạc từ đầu đến cuối thế kỷ XVI và còn đối địch với nhà Mạc thu nhỏ ở Cao Bằng. Do vậy sử thần nhà Lê – Trịnh bôi xấu triều Mạc là tất nhiên, yêu nên tốt, ghét nên xấu là chuyện thường tình ”; “ Mạc Đăng Dung lấy ngôi vua nhà Lê không phải từ tay vua Lê anh hùng như Lê lợi, một vua Lê có học vấn và tài năng đức dộ như vua Lê Thánh Tông, mà lấy từ những vua lợn, vua quỷ. Sự thay thế đó là hợp lẽ đời và đạo, việc ấy là theo lẽ phải “ Lẽ phải chính trị và nhân văn ”
+ Trên cơ sở nghiên cứu khách quan, khoa học, công bằng thì việc nhà Mạc thay thế nhà Lê khi đó đã mục nát, là một tất yếu khách quan của lịch sử. Điều đó giống như: Nhà tiền Lê thay nhà Đinh; nhà Lý thay nhà tiền Lê, nhà Trần thay nhà Lý, cũng như nhà Hồ thay nhà Trần... Thế nhưng sử gia phong kiến Lê – Trịnh lại bôi nhọ nói xấu nhà Mạc là “ Ngụy Triều ” giống như: Nhuận Hồ, Ngụy Mạc, Ngụy Tây Sơn. Bởi vì theo chế độ phong kiến một dòng họ làm vua cứ muốn theo kiểu cha truyền con nối, không muốn cho người khác nên thay, mặc dù chế độ đó đã qúa thối nát, mục ruỗng là những “ vua quỷ, vua lợn ”, dân chúng thì lầm than khổ cực, nên rất cần thiết phải thay thế chế độ đó là điều tất yếu. Có như vậy thì xã hội loài người mới phát triển và đã trải qua 5 chế độ: Cộng sản nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế dộ tư bản chủ nghĩa và chế độ XHCN ….
– Như vậy tự nhiên có quy luật vận hành của tự nhiên ( Sáng trưa, chiều tối, nắng mưa, thời tiết 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, nước thủy triều lên, rồi lại xuống cơ mà ). Cũng như vậy xã hội có quy luật vận hành của xã hội, không có gì là bất biến, là tuyệt đối cả, có như thế xã hội phong kiến mới trải qua nhiều triều đại, thể hiện đúng quy luật vận động và phát triển của xã hội, đó là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, không có gì có thể cưỡng lại được ( vì ngay cả trong chế độ phong kiến cũng đã trải qua các triều đại như: Đinh, Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn cơ mà )
– Còn khi cụ Mạc Đăng Dung lên ngôi Vua, công lao của Mạc Triều được đánh gía khái quát như sau: Cụ Mạc Đăng Dung bằng tài trí văn võ song toàn, dùng võ công mà định đoạt thiên hạ, dùng nhân đức để trị quốc an dân, giữ yên bờ cõi, lấy văn giáo để rèn luyện nhân tài, lấy tư duy đổi mới để phát triển kinh tế nông, công, thương, tín, xây dựng xã hội no ấm, giàu mạnh. Vì vậy xã hội Triều Mạc “Đất nước thịnh nhờ tâm Minh Đức, Quốc Pháp minh bởi Thiện Chính Thư ”. Từ khi cụ Mạc Đăng Dung lên ngôi vua lấy niên hiệu là Minh Đức tức là lấy đức sáng để trị vì thiên hạ. Trong đó nhà Mạc đã trị vì 65 năm ( 1527-1592 ), ở kinh thành Thăng long với 6 đời vua: Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp, Mạc Toàn và 92 năm ( 1593-1685 ) ở Cao Bằng với 6 đời vua nữa là: Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung; Mạc Kính Khoan; Mạc Kính Vũ, Mạc Nguyên Thanh ( Kính Hỷ ), Mạc Kính Quang ( Kính Tiêu ).
+ Tổng cộng Nhà Mạc có tất cả 12 đời vua là 158 năm. Thời gian trị vì của nhà Mạc tuy không dài, nhưng cũng không phải quá ngắn trong lịch sử dân tộc như một số triều đại khác là: Nhà Đinh ( 12 năm ), Tiền Lê ( 29 năm ), Hồ ( 7năm ), Tây Sơn ( 24 năm).
– Cho nên việc thay đổi xã hội phong kiến, từ triều đại này sang triều đại khác là tất yếu khách quan của lịch sử, thì các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa xã hội, cũng như dư luận xã hội càng không nên định kiến mãi tư duy phong kiến lạc hậu, bảo thủ lỗi thời. Trong đó họ gọi triều đại này là chính thống, triều đại kia là ngụy triều, nhuận triều như những sử gia phong kiến đối địch đã từng gán ghép cho các triều đại khác nhau.
– Trong thời đại Hồ Chí Minh, từ khi có đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước cũng rất cần thiết phải có tư duy đổi mới khách quan để nghiên cứu đánh giá về các sự kiện lịch sử, trong đó có việc đánh giá lại các Triều đại phong kiến trước đây. Trong đó cần nhìn nhận sự khách quan công bằng của lịch sử, và sự công minh của xã hội là các triều đại phong kiến ấy đã làm gì cho lịch sử đất nước và dân tộc. Vì vậy theo cách gọi của nhà nghiên cứu làm lịch các Triều đại Việt Nam là: Lê Thành Lân thì thời kỳ đầu Nhà Mạc ở Thăng Long ( 1527-1592 ) được gọi là Vương triều chính thức; nhà Lê -Trịnh khi đó ở Tây đô ( Thanh Hóa ) gọi là Vương triều cùng thời. Còn sau này từ năm 1594 trở đi, nhà Lê trung hưng ở Thăng Long gọi là Vương triều chính thức; còn Nhà Mạc ở vùng Cao Bằng ( 1593-1685 ) gọi là Vương triều cùng thời. Cách gọi đó vừa hợp lý, hợp tình hơn và nhân văn hơn, tránh được những định kiến, lỗi thời, và thành kiến nặng nề của xã hội phong kiến thối nát còn rơi rớt lại, trong đầu mỗi con người của thế kỷ 21 văn minh hiện đại.
– Tuy vận nước cũng có lúc thịnh, lúc suy, song hào kiệt đời nào cũng có, từng “ dòng họ ”cũng có lúc thăng, lúc trầm, nhưng không có dòng họ nào là bất biến ( ngay như nhà Trần với chiến công lừng lẫy, 3 lần đánh thắng quân Nguyên xâm lược rồi sau đó con cháu không giữ được cơ nghiệp, cũng suy đồi và xuống dốc để nhường ngôi cho Vua Hồ Quý Ly lên ngôi, cũng là sự phát triển tất yếu khách quan của lịch sử ) . Nhưng những đóng góp khách quan của Nhà Mạc trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, như GS Văn Tạo nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam đã kết luận trong hội thảo KHLS: Cần phải được hậu thế trân trọng và phát huy, phải được đánh giá sự công minh của lịch sử và sự công bằng của xã hội. Như nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khi đến thăm và làm việc với Hội KHLSVN đã chỉ rõ: “ lịch sử phải khách quan, khoa học, trung thực, công tâm và công bằng”. Phát huy truyền thống tiên tổ Mạc Triều, đã được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh giá rất cao: “ Lũng động văn chương quang nhật nguyệt
Cổ Trai Đế Nghiệp tráng sơn hà ”
– Là những con cháu hậu duệ Mạc tộc chúng ta luôn khắc cốt, ghi xương tâm huyết một điều về truyền thống vinh hiển hào hùng của dòng họ Mạc, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ, tích cực phấn đấu học tập công tác tốt, giúp nhau trưởng thành tiến bộ, để phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mặt khác từ trong sâu thẳm trái tim, dòng máu của mình, mỗi người chúng ta có dòng máu của họ Mạc chảy trong người, nên hướng về cội nguồn mà kề vai sát cánh, chung tay góp sức, chung lưng đấu cật để có nhiều hoạt động hiếu nghĩa, tri ân tiên tổ. Do đó mỗi hậu duệ nhà Mạc ( gốc Mạc ) , dù ở cương vị công tác nào, và ngành nghề công tác khác nhau, nhưng hãy chung tay, góp sức; nếu có lương góp vài ngày lương, nếu không có lương góp công, góp sức làm các việc hữu ích cho dòng họ. Đối với các nhà doanh nghiệp có điều kiện kinh tế nên công đức lớn hơn, cho xứng đáng với tầm, với cỡ của các giám đốc, tổng giám đốc, hoặc tạo điều kiện trích một phần lợi nhuận, gây quỹ công đức cho các việc công ích của dòng họ để xây dựng Đền thờ, Từ đường, lăng mộ tổ. Trong đó giai đoạn từ nay ( năm 2013 đến 2015 ) nên tập trung sát cánh cùng với Nhà nước và HĐMT Việt Nam, HĐMT các cấp: Hoàn thiện GĐ2 Khu tưởng niệm Vương Triều Mạc, hoàn thiện giai đoạn 2 Khu đền thờ “ Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ”; xây dựng Từ đường họ Mạc phát đế ở Cổ Trai, Kiến Thụy, Hải phòng và Từ đường họ Mạc phát tích gốc tổ họ Mạc Việt Nam ở thôn Long Động, xã Nam Tân, Nam Sách Hải Dương và lăng mộ các Vua Nhà Mạc. Đồng thời các năm tiếp theo sẽ tiến hành lập dự án đề nghị Nhà nước cho xây dựng khu lăng mộ Vua Mạc Toàn ở Kinh Môn Hải Dương… Trong đó việc thiết thực nhất của các chi họ Mạc ( gốc Mạc ) là đổi mới các hoạt động việc họ, tăng cường giao lưu kết nối dòng tộc giữa các chi họ Mạc, gốc Mạc với nhau. Đồng thời động viên con cháu khuyến học, khuyến tài, và giúp nhau trong khó khăn hoạn nạn, giúp giống, vốn, công cụ trong sản xuất, giúp nhau kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. Đặc biệt HĐMT các cấp HĐGT các chi họ cần động viên và giao nhiệm vụ cho những con cháu thành đạt có điều kiện nghiên cứu khoa học, tiếp tục có nhiều công trình mới chiêu tuyết cho tổ tiên họ Mạc ( mà vừa qua Bộ Giáo dục đã xuất bản 4 tập sách lịch sử với 3000 trang, trong đó đã giành cho nhà Mạc 1 chương với 78 trang, đã cập nhật những tư liệu mới đánh giá về nhà Mạc tương đối khách quan hơn. Sắp tới theo kết luận GSVS Viện Hàn lâm Phan Huy Lê Chủ tịch Hội KHLS là sẽ làm bộ tổng tập lịch sử Việt Nam 25 tập, sẽ giành cho nhà Mạc 1 tập, trong đó có nhiều tư liệu mới được nghiên cứu về Nhà Mạc đánh giá khách quan hơn ) .Trong đó mỗi con cháu hậu duệ nhà Mạc ( gốc Mạc ) tùy theo khả năng, sở trường, trình độ, nhận thức, vị trí công tác mà góp phần tích cực nhất vào việc sửa đổi những định kiến hẹp hòi về nhà Mạc còn ghi lại trong hệ thống sách giáo khoa. Đồng thời HĐMT Việt Nam, HĐMT các địa phương cần cập nhật tư liệu nghiên cứu về nhà Mạc ở thời kỳ đổi mới để tăng cường tuyên truyền hơn nữa cho chính con cháu nhà Mạc bằng các phim tư liệu, và cung cấp bản tin Mạc tộc đều đặn hàng quý và các sách báo nói về nhà Mạc khác. Để chính con cháu chúng ta khi hiểu đúng, sẽ là một tuyên truyền viên tích cực, có sức lôi cuốn, vận động thuyết phục lan tỏa ra toàn xã hội, tạo được sự đồng thuận, để mọi người hiểu đúng công lao to lớn của tổ tiên mình, tránh bị sự xuyên tạc lỗi thời của sử gia phong kiến còn rơi rớt lại sang thế kỷ 21 văn minh hiện đại.
Trong thời gian qua, chi họ chúng tôi cũng tích cực vận động con cháu hậu duệ hướng về cội nguồn, tri ân tiên tổ, công đức ủng hộ một phần nhỏ bé của chi họ mình vào Khu Tưởng niệm Vương Triều mạc, Khu Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, ủng hộ cho xây dựng nâng cấp Từ Đường họ Mạc ở Cổ Trai và ủng hộ cho một số hoạt động của HĐMT Việt Nam, HĐMT Hải Dương, Hải Phòng. Chi họ chúng tôi xác định những việc chúng tôi đã làm được trong thời gian qua chỉ là rất nhỏ bé so với tiền nhân, chỉ là góp thêm những viên gạch hồng, nhằm xóa đi những góc khuất còn định kiến về nhà Mạc, những mảng tối u ám còn đè nặng lên mỗi con cháu chúng ta, để góp phần xây nên ngôi nhà chung Mạc tộc cho tốt đẹp hơn, khang trang hơn. Để tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết của ĐHMTVN và HĐMT các cấp; chi họ chúng tôi sẽ nguyện cùng nhau tiếp tục đồng tâm, hiệp lực cùng với các chi họ Mạc, gốc Mạc trong tỉnh Hải Dương và hậu duệ Mạc tộc toàn quốc thực hiện tốt các nhiệm vụ của dòng họ, nhằm xây dựng dòng họ Mạc ( gốc Mạc ) ngày càng phát triển vững mạnh toàn diện.
Nhân dịp lễ hội mùa xuân trước ngày 10/2 âm lịch năm Quý Tỵ, được sự nhất trí của Ban quản lý đền, tại Đền thờ Viễn tổ Kiến thủy Khâm minh Văn hoàng đế Lưỡng quốc Trang Nguyên Mạc Đĩnh Chi một số con cháu hậu duệ chi họ Nguyễn gốc Mạc xã Hiệp An, Kinh Môn, Hải Dương đã thành tâm công đức cung tiến làm 2 bộ câu đối để tại gian nhà trung tế nơi đặt tượng đồng thờ cụ Mạc Đĩnh Chi để tỏ lòng thành kính dâng ném tâm hương lên Đức Viễn tổ suốt một đời thanh bạch chẳng vàng son luôn vì dân vì nước.
Trong đó 2 bộ câu đối là tấm lòng của con cháu hậu duệ Nhà Mạc có ý nghĩa như sau:
` Câu đối 1: Long động văn chương quang nhật Nguyệt
Hậu duệ phụng thờ được hiển vinh
Câu đối 2: Lưỡng trạng văn chương quang vạn cổ
Mạc Triều khoa cử diệu thiên niên
Ngoài ra ở gian tiền tế còn có 1 bộ câu đối cũng do con cháu hậu duệ nhà Mạc ở Chí Linh, Hải Dương cung tiến là: Lưỡng quốc trạng Nguyên ban tài trí
Con cháu tôn thờ được hiển vinh
Với tấm lòng thành kính tri ân tiên tổ, kính mong Đức Thủy tổ Hồng phúc Đại Vương, Đức Viễn tổ Kiến Thủy Khâm minh Văn Hoàng đế Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi và Đức Mạc Thái tổ Nhân Minh Cao Hoàng Đế và các tiên vương, hoàng thân quốc thích, văn thần võ tướng Mạc Triều hiển linh hãy phù hộ độ trì cho con cháu các chi họ Mạc ( gốc Mạc ) trên toàn quốc, một năm mới mạnh khỏe, gia đình đoàn kết thuận hòa trên dưới, gia tộc được hưng long thịnh vượng, phát triển bền vững, vinh hiển trường thịnh và làm được nhiều việc tri ân tiên tổ hơn nữa. Đồng thời phù hộ cho con cháu học hành giỏi giang thành đạt, công thành danh toại, trưởng thành tiến bộ để xứng danh con cháu một Vương Triều./,
Viết bình luận
Tin liên quan
- GƯƠNG SÁNG DÒNG HỌ QUA CÁC THỜI ĐẠI VIỆT NAM!
- Trao đổi tâm tình VIỆC HỌ (ĐẤT TỔ ĐƯỜNG DÒNG HỌ) VÀ NGƯỜI LÀM VIỆC HỌ
- CÓ HAI THỨ CHA MẸ CẦN TRANG BỊ CHO CON CÁI, VÀ CHỈ HAI THỨ ĐÓ LÀ ĐỦ
- ĐI TÌM DẤU XƯA CHUYỆN CŨ CỦA DÒNG HỌ Ở CAO BẰNG – Ký sự của Đào Tiến Thi, 8/11/2015 (công tác tại Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) –
- MỘT THANH NIÊN NGƯỠNG MỘ CỤ MẠC ĐĨNH CHI – Mạc Văn Trang – 24/10/2015 –
- HUYỀN TÍCH DƯƠNG KINH Những giai thoại “Siêu Linh Huyền Bí” (tiếp theo và hết) –
- HÃY ĐỂ NGƯỜI XƯA LÊN TIẾNG
- Ý KIẾN VỀ BÀI “CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ” CỦA HOÀNG THIẾN PHỦ
- KÝ ỨC VỀ MẠC TỘC HẢI DƯƠNG TẠI TP.HCM – SƠ KHAI CỦA MẠC TỘC TP.HỒ CHÍ MINH
- KÝ ỨC VỀ NHỮNG NGÀY THAM GIA SINH HOẠT BAN LIÊN LẠC HỌ MẠC HÀ NỘI
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang