- Đang online: 3
- Hôm qua: 1220
- Tuần nay: 21153
- Tổng truy cập: 3,371,302
Việc cải đổi danh tính họ Mạc
- 1062 lượt xem
Việc cải đổi danh tính họ Mạc
(DVT.vn) – Sự hưng vong của một dòng họ, một gia tộc có liên quan tới lịch sử thăng trầm của một đất nước.
Sau cái mốc thời gian năm 1592, Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long thì một chiến dịch truy sát họ Mạc đã diễn ra. Trong Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn ghi: “Bình An vương (Trịnh Tùng) giết hết bọn ngụy đảng, đem quân phá hết cung điện ở Cổ Trai, hủy bia ở mộ, chặt hết cây trồng trong lăng. Đó là tỏ sự truy phạt vậy”. Họ Trịnh đã hành hình Mạc Hồng Ninh rất tàn nhẫn, đưa ra phía nam cửa doanh xử lăng trì (dùng voi xé xác), đóng đinh vào mắt, chặt và bêu đầu, rồi đem thủ cấp hiến hoàng đế ở hành tại Vạn Lại xứ Thanh Hóa.
Để xóa bỏ đối thủ của mình, uy hiếp con cháu họ Mạc để làm tiêu tan ý chí phục thù rửa hận và tránh được hậu họa về sau, chúa Trịnh đã giết một lúc hơn 60 người họ Mạc, thây chết đầy bờ cát, tạo ra bầu không khí nặng nề ghê sợ. Điều này khiến cho có những thân vương nhà Mạc tin rằng, đại cục không cứu vãn được sự tự sát cũng như sự trấn áp uy bức của họ Trịnh, dẫn tới chỗ này xưng vương, chỗ khác khởi loạn (Mạc Kính Chỉ ở Đông Triều, Mạc Kính Cung ở Văn Chẩn, Mạc Kính Chương ở An Quảng, Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng…).
Một góc thành nhà Mạc ở Tuyên Quang.
Con cháu họ hàng nhà Mạc phải li tán, mai danh ẩn tích, ở nhiều vùng, nhiều miền đất lạ, đổi thành nhiều họ, hoặc theo họ mẹ, hoặc theo họ của bố nuôi, hoặc theo họ của địa phương cư trú, hoặc theo điều kiện sinh hoạt… nhưng đều giữ một quy ước chung để sau này tìm nhau. Quy ước đó có nơi ghi rõ trong giai phả, có nơi chỉ truyền miệng. Đó là “khử túc bất khử thủ” (bỏ chân không bỏ đầu). Ví như chữ Mạc bỏ nét ngang ở chữ Đại dưới chân, đưa lên thành chữ Hoàng, tức là bộ thảo đầu vẫn giữ. Đó là dùng chữ Đăng làm tên đệm, ví như: Hoàng Đăng…, Thạch Đăng… Quy ước thứ hai này về sau cũng không bắt buộc giữ vì lẽ đó.
Dương Bá Cung viết Lều thị thế phả năm Tự Đức thứ 6 (1853) có ghi: “…Tổ tiên họ Mạc, đến đầu thời Lê Trung Hưng đổi thành họ Lều, giữ lại bộ thảo đầu sợ lẫn với họ khác…”. Cũng phả đó cho biết còn họ Khương, họ Hoàng, họ Vũ, họ Phạm lưu lạc chuyển đổi không xét được. Tại nhà thờ họ Lều ở Nhị Khê, Thượng Phúc, Thường Tín (nay thuộc Hà Tây), ngoài phả trên còn có từ đường cất giữ nhiều hoành phi, câu đối. Một trong số câu đối đó có một câu mà dòng họ này cho là tiên tri:
Tứ bách niên tiền chung phục thủy
Thập tam thế hậu dị nhi đồng
Dịch là:
Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu
Mười ba đời sau, khác biệt mà vẫn cùng chung.
Các họ mà phả này nhắc đến, chúng tôi cũng đã tìm ra, đối chiếu đều ăn khớp. Xin đơn cử như họ Phạm ở Thanh Đặng, Văn Giang (nay thuộc Minh Hải, Mỹ Văn, Hải Hưng) có nói đến một chút ở xã An Lưu, huyện Giáp Sơn đổi thành họ Nguyễn. Còn lại ở Thanh Đặng thì: “Lúc này, họ Trịnh chuyên quyền nên đổi ra họ Phạm để làm mờ dấu tích, giống như họ Thúc, họ Châu thời Xuân Thu, sau là họ Chu vì giữ lại nét chữ bên cạnh. Nhà ta lấy họ Phạm cũng suy ra từ ấy mà giữ nét chữ ở bộ thảo”.
1. Họ Phạm ở 3 tỉnh: Hải Hưng, Bắc Giang (Xuân Đán, Thanh Chương, huyện Yên Dũng) và Nam Hà (Kiên Lao, Ngọc Tĩnh, Hoàng Tứ thuộc huyện Xuân Thủy).
Tộc phả của họ Phạm ở Nam Hà cho biết, từ Dương Kinh (tức Cổ Trai) ra đi năm 1652 di cư đến Cồn Lau, Cồn Kiên thuộc phủ Thiên Trường. Người ra đi là Mạc Đặng Thận (cháu bốn đời của Mạc Thái Tổ), đi bằng thuyền giả lái buôn thăm dò thấy yên ổn mới định cư tại đó. Khi đi mang theo kỷ vật là Thanh long đao của Mạc Thái Tổ. Thanh long đao này nặng 25,6 kg, dài 2,55 m (phần cán là 1,6 m, phần lưỡi 0,9 m), cán rỗng, có chốt ở đốc đao… hiện còn lại để tại nhà thờ họ.
Mạc Đặng Thận đổi thành Phạm Đình Trú. Sau có 3 chi. Con cháu họ này vẫn phát huy được truyền thống võ; nhiều vị được phong tước hầu, tước bá (Vạn Sơn hầu, Quảng Đình hầu, Dật Sử hầu, Viên Hùng bá…); nhiều vị được phong là Phúc thần thờ ở các xã; có vị đã khai khẩn được 700 mẫu ruộng cung cấp cho dân vùng đó.
Khu tưởng niệm Vương triều nhà Mạc (thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng – quê hương của Mạc Đăng Dung), khánh thành ngày 25/12/2010.
2. Họ Lều ở Nhị Khê, Thượng Phúc (nay là Thường Tín, Hà Tây) còn từ đường, phả chép trên lụa, ghi được 13 đời. Vị trở về đây là Mạc Phúc Trì. Con cháu dòng họ này có người được phong Hồng lô và Quang lộc đại phu. Trước khi thành lập Đảng cộng sản Đông Dương, có Lều Thọ Nam từ 1926 đã tham gia chi hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đầu tiên ở Hà Nội, và đầu 1928 đã đi “vô sản hóa” ở xí nghiệp sửa chữa ô tô Trường Xuân, rồi đi dự hội nghị thành lập Đảng cộng sản Đông Dương tại Hà Nội. Lều Thọ Nam là thành ủy viên phụ trách học sinh. Năm 1930 bị địch bắt cùng với Đinh Xuân Nhạ, Đặng Xuân Khu, Nguyễn Ngọc Vũ…
3. Họ Bùi ở Quất Động, Thượng Phúc (nay là Thường Tín, Hà Tây). Người di tản về đây là Mạc Phúc Đăng (con cháu Mạc Phúc Hải) đổi ra họ Bùi là họ mẹ (Bùi Thị Ban). Nơi đây có mộ của Mạc Phúc Hải, còn từ đường, con cháu vẫn giữ được truyền thống cách mạng. Họ này có Bùi Quốc Khái đi sứ có công được phong tặng rất hậu: Công bộ Thượng thư, được mang quốc tính, tức (Lê Công Thanh) ông tổ của nghề thêu. Hiện nay có Bùi Trần Chuyên, thành ủy viên Hà Nội đã nghỉ hưu.
4. Họ Nguyễn ở 3 tỉnh: Hải Hưng (An Lưu, Phù Lưu huyện Giáp Sơn); ở Hà Tây (Phú Xuyên); ở Thái Bình (Nguyên Xá).
5. Họ Hà ở Thái Bình (Tiên Hùng) từ chi họ Nguyễn trên đổi họ.
6. Họ Vũ ở Thái Bình (Đông Hưng) từ chi họ Bùi đổi sang.
7. Họ Lê Đăng ở Hà Bắc (Phù Khê, Tiên Sơn, Phương La, Yên Phong).
8. Họ Thạch ở Hà Nội (Ninh Hiệp, Gia Lâm; Đình Xuyên, Gia Lâm).
9. Họ Hoa ở Hải Phòng (An Hải) sau đổi là họ Khoa vì kiêng húy.
10. Họ Hoàng ở 5 tỉnh: Hà Tây (Cần Xá, Quốc Oai); Nam Hà (Đô Hoàng, Ý Yên) chi họ Hoàng ở Nam Hà có Hoàng Minh Giám tức Chu Thiên (tác giả Bóng nước Hồ Gươm), có Nhượng Tống viết báo Nam Thành, Hồn Cách mạng, Thực nghiệp dân báo… trước cách mạng. Đời thứ 6 có người đổi ra họ Vũ.
Vào Thanh Hóa (Hoàng Giang, Nông Cống), Mạc Đăng Khuê đổi ra Hoàng Phúc Khê lập ra ấp Thổ Ngỏa, xây chùa, khai hoang. Con cháu sau này có Hoàng Thế Bảo, lão thành cách mạng đã đưa Tổng Bí thư Đảng Đông Dương Nguyễn Văn Cừ vào nam hoạt động. Ở Nghệ An, từ cụ Mạc Đăng Lượng đổi ra là Hoàng Đăng Quang và từ Mạc Huyền Trai đổi ra họ Phan, rồi đổi ra họ Hoàng, Quảng Bình (Quảng Ninh, Quảng Trạch) từ Nghệ An vào.
11. Họ Phan ở Nghệ An (Quỳnh Lập, Quỳnh Lưu; Xuân Thành, Yên Thành;…) phái hệ của Mạc Mậu Giang đổi họ từ Huyền Nhai đến đời 15 có Phan Đăng Lưu, ủy viên BCH TƯ ĐCSVN.
12. Họ Thái ở Nghệ An (Diễn Hòa, Diễn Châu) phái hệ Mạc Đăng Bỉnh.
13. Họ Mạc ở hai tỉnh: Hải Hưng (Nam Tân, Nam Thanh); Hải Phòng (Hợp Thành, Thủy Nguyên; Tiên Cường, Tiên Lãng; Cổ Trai, Ngũ Đoan;…). Một dấu hỏi được đặt ra là: Tại sao ở đây vẫn giữ nguyên là họ Mạc? Là vì: Quận chúa Trịnh Thị Nhâm lấy Mạc Đạo Trai (con trai của Mạc Phúc Tư, cháu của Mạc Đăng Doanh) nên không thể “cạn tàu” với thông gia, đó là chưa nói họ Mạc còn có nhiều ưu ái với Trịnh Cối (anh ruột Trịnh Tùng) và phần nào là lòng dân đối với nhà Mạc.
14. Họ Bế ở Cao Bằng (Nà Lự)
15. Họ Ma ở Cao Bằng (Nà Lự)
16. Họ Đào chưa xác định rõ
17. Họ Tô chưa xác định rõ
18. Họ Khương chưa xác định rõ (cho đến tháng 12/1995, Ban liên lạc họ Mạc ở Hà Nội đã nhận được từ 22 tỉnh là 119 chi họ).
19. Họ Đoàn ở xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, Bắc Giang là hậu duệ của Mạc Kính Điểu, Mạc Kính Phu. Mạc Kính Phu tước Đoan Lương công, lấy tước này mà đổi thành Nguyễn Đoan khi về xã Nhân Thắng, huyện Gia Lương, Hà Bắc rồi khi về xã Nhân Hựu, huyện Gia Bình, Hà Bắc đổi thành Đoàn Quang, Đoàn Trác, Đoàn Huy… Gia phả chép năm Minh Mệnh 15 (1835).
Thanh long đao của hoàng đế Mạc Đăng Dung được bảo quản và lưu thờ nhiều thế kỷ tại từ đường họ Phạm gốc Mạc thôn Ngọc Tỉnh, thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Nay, đã được dời về Khu tưởng niệm Vương triều Mạc.
Qua khảo sát Gia phả, Tộc phả, chúng tôi khẳng định được 20 họ kể trên gốc từ họ Mạc. Chúng tôi đã đến hầu khắp các địa điểm có chi họ Mạc trên, điều xúc động đối với chúng tôi là gặp các cụ già trên 80 tuổi. Các cụ kể về việc tầm tông (tìm họ) của cụ những năm cải cách ruộng đất đã đi bộ hàng trăm cây số với cuốn tộc phả gói kỹ đeo bên người và bị bắt giữ. Đó là các cụ ở Yên Dũng, Hà Bắc và Ninh Hiệp (Gia lâm, Hà Nội). Đến Thủy Nguyên, Hải Phòng nhiều bà con mang họ khác nhưng khi quá cố, về cõi vĩnh hằng thì bia mộ lại ghi họ Mạc. Ở Nam Hà các cụ mong các nhà khoa học sớm minh chuyết cho Mạc Thái Tổ những vấn đề mà Trần Trọng Kim đa viết sai sự thực.
Nhân hội thảo này, tôi xin chuyển đạt điều mong muốn chính đáng của nhiều chi họ gốc Mạc đến quý vị. Con cháu của họ Mạc, dù ngày nay mang họ gì đi nữa, dù ở đâu cũng tiếp tục tìm nhau, xác định họ hàng tổ tông, như dòng sông, con suối đều có ngọn nguồn của nó. Xuân 1994, Giáo sư Viện trưởng Viện KH XH Thành phố Hồ Chí Minh Mạc Đường đã bay ra Hà Nội và tìm đến từ đường họ Thạch ở Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) là nơi các chi họ quy ước hàng năm họp mặt lễ tổ, để thắp một nén tâm hương trước bàn thờ tổ. Quá khứ là bài học, hiện tại là định hướng cho tương lai. Từ đó mà giáo dục con cháu phát huy truyền thống của dòng họ, ra sức xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội văn minh…
Kết luận:
Việc đổi họ thay tên trong lịch sử Việt Nam ta từ xưa tới nay là chuyện bình thường và có rất nhiều nguyên nhân khác nhau: hoặc vì bán khoán, vì ở rể, vì ngoại hôn, vì làm con nuôi, vì phạm húy, vì được ban họ vua chúa, vì ái mộ, vì mâu thuẫn, vì mục đích hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị… Ở đây họ Mạc đổi ra nhiều họ, nguyên nhân chủ yếu là để tránh trả thù; cũng như họ Lý đổi ra họ Nguyễn, họ Trần đổi ra họ Đặng, họ Trịnh đổi ra họ Nguyễn… trong từng giai đoạn lịch sử vậy.
Thông tin của chúng tôi vào thời điểm này, có thể chưa đầy đủ nhưng khá chính xác, đáng tin cậy; mong cung cấp cho các nhà nghiên cứu khoa học có thêm tư liệu tìm hiểu về nguồn gốc các họ từ đâu, đặc điểm, diễn biến theo quan điểm đồng đại lẫn lịch đại, chắc sẽ phần nào bổ ích cho những ai muốn đi sâu về dân tộc học, xã hội học, nhân danh học, gia phả học…
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.