- Đang online: 3
- Hôm qua: 568
- Tuần nay: 13954
- Tổng truy cập: 3,386,004
TRUYỀN THUYẾT VỀ MẠC ĐĂNG DUNG
- 1043 lượt xem
CHƯƠNG BA: TRUYỀN THUYẾT VỀ MẠC ĐĂNG DUNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI TẠI VÙNG KIẾN THỤY- HẢI PHÒNG
1. Truyền thuyết về Mạc Đăng Dung và tín ngưỡng tại vùng Kiến Thụy, Hải Phòng.
1.1. Lễ hội tưởng nhớ Mạc Dăng Dung tại Kiến Thụy, Hải Phòng.
Truyền thuyết và lễ hội là hai lĩnh vực có mối quan hệ mật thiết với nhau. “Truyền thuyết về người anh hùng là một nguyên cớ để dân làng dễ dàng mở hội” [40; 100]. Ngược lại, lễ hội chính là môi trường thuận lợi nhất để bảo lưu và truyền bá truyền thuyết, làm cho truyền thuyết sống mãi trong tâm thức người dân. Do đó, nghiên cứu truyền thuyết về một nhân vật tất yếu phải tìm hiểu lễ hội về nhân vật ấy. Việc nghiên cứu truyền thuyết về Mạc Đăng Dung của chúng tôi cũng không phải ngoại lệ.
Hiện nay, tại địa bàn huyện Kiến Thụy không còn một lễ hội riêng biệt nào để tôn vinh Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên, qua quá trình điền dã tiếp xúc với những người làm công tác văn hóa và những cụ già tại làng Cổ Trai, chúng tôi được biết: trước đây Mạc Đăng Dung từng được thờ làm thành hoàng tại làng Cổ Trai và nhiều lần được các vua triều Nguyễn gia phong phúc thần.
Trong suốt khoảng thời gian Mạc Đăng Dung được thờ làm thành hoàng, dân làng đều tổ chức lễ hội vào ngày 22 tháng 8 âm lịch hàng năm là ngày mất của Mạc Đăng Dung. Vào ngày hội, mỗi họ trong làng đều dâng lễ vật gồm một mâm xôi, một con gà, một mâm hoa quả, món ăn từ tôm cá, để dâng thành hoàng, tưởng nhớ đến thuở thiếu thời gian khó ông phải đi đánh cá, mò cua bắt ốc kiếm sống. Phần tế lễ của ngày hội được giao cho các cụ cao tuổi, các chức dịch và hội tư văn đảm nhận. Đặc biệt, việc đọc chúc văn ca ngợi công đức thành hoàng, cầu xin thành hoàng che chở cho dân làng luôn được giao cho ông trưởng họ Mạc thực hiện. Người dân Cổ Trai xưa quan niệm, nếu chúc văn do chính người họ Mạc đọc thì lời cầu xin sẽ linh ứng, ơn trạch của thành hoàng sẽ dồi dào.
Sau phần tế lễ trang nghiêm, dân làng bước vào phần hội với nhiều trò chơi biểu dương sức mạnh và tinh thần thượng võ. Các trò chơi có thể thay đổi qua nhiều năm nhưng không năm nào thiếu trò đấu vật. Đây là trò chơi để tưởng nhớ và tôn vinh sức khỏe của thành hoàng Mạc Đăng Dung khi xưa. Chính nhờ môn đấu vật mà ông trúng Đô lực sỹ và từ đó tiến thân trên con đường binh nghiệp. Vào ngày hội, mỗi họ cử ba thanh niên khỏe mạnh, chưa lập gia đình, nhà không có tang trở ra bắt thăm để chia cặp thi đấu. Nhân dân Cổ Trai xưa cho rằng, ai giành được giải nhất hội vật thì năm ấy tất được vinh hiển và cả họ cũng được phúc lây.
Lễ hội tưởng nhớ thành hoàng Mạc Đăng Dung ở Cổ Trai còn có một điểm đặc biệt: dân làng Trà Phương nhân ngày hội này cũng tổ chức một đám rước kiệu của Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản từ Trà Phương sang Cổ Trai và ở lại cùng dự hội với người dân nơi đây. Vì vậy, lễ hội này là dịp để người dân hai làng chung vui, cùng tưởng nhớ và tôn vinh những vị phúc thần của quê hương mình.
Lễ hội tưởng nhớ về thành hoàng Mạc Đăng Dung tại làng Cổ Trai xưa với lịch sử hàng mấy trăm năm đã có sức lan tỏa, ảnh hưởng rộng khắp trên toàn vùng Kiến Thụy. Nó là môi trường diễn xướng chính của những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung. Chính nhờ lễ hội này mà truyền thuyết Mạc Đăng Dung được gìn giữ và lưu truyền, được khắc sâu trong tâm thức người dân Kiến Thụy bất chấp sự phê phán, thái độ lạnh nhạt của các sử gia và của một bộ phận dư luận xã hội.
Đến những năm 70 của thế kỷ XX, hưởng ứng cuộc vận động đổi mới tư duy, bài trừ mê tín dị đoan của chính quyền, nhân dân Cổ Trai đã dỡ ngôi đình thờ thành hoàng Mạc Đăng Dung. Bức tượng Mạc Đăng Dung và mười bốn bản sắc phong của các vua triều Nguyễn được con cháu họ Mạc rước về thờ tại từ đường. Từ đó đến nay, lễ hội về thành hoàng Mạc Đăng Dung tuy không còn được tổ chức nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn rộng khắp trong dân chúng. Nhiều cụ già ở Cổ Trai và một số nơi khác trên địa bàn Kiến Thụy vẫn nhớ như in không khí trang trọng của buổi tế lễ cũng như sự vui tươi, sôi nổi lúc rước kiệu từ Trà Phương sang hay khi trò chơi đấu vật được mở màn. Lễ hội về Mạc Đăng Dung tuy giờ đây không còn nhưng nó cũng đã làm được một nhiệm vụ lịch sử quan trọng: gìn giữ và lưu truyền những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trong suốt mấy trăm năm để di sản văn hóa quý giá này của nhân dân Kiến Thụy không bị mai một.
1.2. Tục thờ cúng Mạc Đăng Dung tại Kiến Thụy, Hải Phòng.
Văn học dân gian nói chung và truyền thuyết nói riêng có mối quan hệ mật thiết với tín ngưỡng. Truyền thuyết với mục đích chính là ca ngợi, thiêng hóa đối tượng được nói đến chính là xương cốt của tín ngưỡng. Ngược lại, tín ngưỡng dân gian là cơ sở để truyền thuyết tồn tại, là một trong những con đường quan trọng để truyền thuyết được lưu truyền và phổ biến trong nhân dân. Đối với người Việt, tín ngưỡng dân gian bao giờ cũng được biểu hiện cụ thể và sinh động qua tục thờ cúng. Vì thế, chúng tôi tìm hiều tục thờ cúng Mạc Đăng Dung tại vùng Kiến Thụy, Hải Phòng để phần nào thấy được sức sống của những truyền thuyết trên tại địa phương.
Đối với người dân Dương Kinh xưa tức Kiến Thụy ngày nay, Mạc Đăng Dung là người có ơn lớn. Ông đã xây dựng Dương Kinh thành một đô thị cảng sầm uất, ông cùng Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản và các thân vương cũng có nhiều đóng góp vào lĩnh vực văn hóa như xây dựng đình chùa, đạo quán, phát triển giáo dục. Vì thế Mạc Đăng Dung được thờ ở nhiều nơi trên địa bàn Kiến Thụy. Hiện nay, ngoài từ đường họ Mạc, ở Kiến Thụy có 2 nơi tiêu biểu hiện đang thờ Mạc Đăng Dung là chùa Trà Phương(Thiên Phúc Tự), xã Thụy Hương và chùa Hòa Liễu (Thiên Phúc Tự), xã Thuận Thiên.
Tại chùa Trà Phương (Thiên Phúc Tự) xã Thụy Hương, tượng của Mạc Đăng Dung và Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản được thờ chung trên một ban đặt tại gian bên phải của Phật điện. Đây chính là kiểu thờ hậu Phật đặc trưng của thời Mạc (nhân dân tạc tượng hoặc đặt bài vị của những người công đức xây chùa hoặc những người có ơn với cộng đồng trong chùa và thờ cúng ngang hàng với các vị Phật). Do những công đức đối với nhân dân Trà Phương, người dân nơi đây vẫn gọi Mạc Đăng Dung với danh xưng Vua Cha và Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản là Thánh Mẫu. Vào ngày hội chùa (mùng 6 tháng Giêng âm lịch hàng năm) ngoài việc lập đàn chay, dâng lễ cúng Phật, người dân nơi đây cũng dành riêng một phần tế lễ đối với Mạc Thái Tổ và Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản. Phần tế lễ này được tiến hành vào buổi sáng sau khi đã dâng lễ xong lên đức Phật với sự tham gia của dân làng và nhà chùa. Ông trưởng làng thay mặt nhân dân đọc chúc văn ca ngợi công đức của Vua Cha và Thánh Mẫu, thể hiện lòng biết ơn của đông đảo nhân dân, và cầu xin Vua Cha, Thánh Mẫu phù hộ che chở cho mọi người. Tiếp đó là lễ dâng hương đăng, hoa quả, cỗ chay của nhà chùa và khách thập phương. Trong những dịp tuần rằm, lễ tiết quan trọng người dân Kiến Thụy và du khách khắp nơi cũng thường xuyên tới chùa dâng hương thể hiện lòng thành kính và cầu xin sự che chở từ hai vị phúc thần này.
Tại chùa Hòa Liễu (Thiên Phúc Tự) xã Thuận Thiên, Thái tổ Mạc Đăng Dung tuy không được tạc tượng nhưng cũng có bài vị đặt tại chùa, và được thờ cùng Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản cùng các vị vua khác của triều Mạc. Những bài vị này được thờ trang trọng tại một gian riêng sau Phật điện. Hàng năm, vào dịp hội chùa (14 -15- 16 tháng Giêng) nhà chùa đều dành một buổi lễ trọng thể để tế Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản, Mạc Thái Tổ Mạc Đăng Dung cùng các hoàng đế Mạc triều vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch. Tất cả lễ phẩm trong ngày hôm ấy đều dùng đồ chay và chủ yếu là bánh gai, bánh mật – tương truyền là thứ bánh mà Mạc Thái Tổ và Thái hoàng Thái hậu thường dùng.Trong dịp này, mỗi gia đình trong làng thường làm một mâm xôi mang đến dâng lễ để cảm tạ ơn đức của hai vị phúc thần đã phù hộ cho họ suốt năm qua, cầu xin một năm mới an khang thịnh vượng. Cũng trong ngày này nhân dân trong làng mở hội vật để cầu người đông, vật thực và tưởng nhớ Thái Tổ Mạc Đăng Dung.
Ngoài ra vào rằm tháng sáu, người dân trong vùng cũng tổ chức lễ giỗ mặn, dâng lên Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản cùng các vị vua nhà Mạc những sản vật địa phương do chính mình làm ra để bày tỏ lòng thành kính.
Theo chúng tôi, việc nhân dân tạc tượng và đặt bài vị thờ Mạc Thái Tổ trong chùa là hiện tượng văn hóa đặc biệt bởi lẽ Chùa vốn là nơi thờ Phật. Khi Phật giáo có sự giao lưu với các tín ngưỡng dân gian thuần Việt, trong chùa cũng có thờ thêm nhiều những vị thánh, vị thần của tín ngưỡng dân gian như Mẫu Liễu Hạnh, thánh Trần… Tuy nhiên việc tạc tượng hay dựng bài vị những nhân vật lịch sử và thờ phụng ngang hàng với các vị Phật trong chùa là hiện tượng hiếm có. Người dân chỉ tạc tượng thờ trong chùa những nhân vật nào có công đức lớn lao với nhà chùa và với những người dân trong vùng. Do đó, việc nhân dân thờ tượng Mạc Đăng Dung như một vị Phật đã chứng tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc của người dân Kiến Thụy đối với ông. Đối với người dân xã Thuận Thiên, Thụy Hương nói riêng và đối với người dân Kiến Thụy nói chung, Mạc Đăng Dung cùng Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản được coi là phúc thần.
Việc thờ phụng, sùng kính của nhân dân đối với Mạc Đăng Dung và Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản xuất phát từ nguyên nhân cụ thể: Mạc Thái Tổ cùng Thái hoàng Thái hậu chính là người đứng ra vận động những người trong hoàng thất tu sửa và xây dựng lại chùa Trà Phương và chùa Hòa Liễu. Không những thế, Thái hoàng Thái hậu còn bỏ tiền mua ruộng đất cấp cho chùa làm của hương hỏa và cấp ruộng cho những người nghèo ở hai làng; bà cũng tu sửa, xây dựng nhiều chùa quán khác trong địa bàn Kiến Thụy. Điều đó đối với nhân dân xưa là công đức rất lớn. Vì thế, việc làm này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong đời sống tâm linh của họ.
Vị trí của Mạc Đăng Dung trong đời sống tâm linh của người dân Kiến Thụy chính là một trong những điều kiện thuận lợi để truyền thuyết về Mạc Đăng Dung tồn tại và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Qua mấy trăm năm lịch sử, việc thờ cúng Mạc Đăng Dung như một vị phúc thần tại các chùa ở Kiến Thụy đã khắc sâu và bồi đắp niềm ngưỡng vọng thiêng liêng của người dân đối với vị vua đầu tiên của vương triều Mạc. Chính lòng biết ơn, kính trọng ấy đã khiến truyền thuyết về Mạc Đăng Dung mau chóng bén rễ và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của người dân Kiến Thụy. Và nhờ thế trong đời sống hiện đại ngày nay, bất chấp sự xâm lấn của những luồng tư tưởng mới, truyền thuyết Mạc Đăng Dung vẫn tồn tại vững chắc trong lòng người dân nơi đây.
2. Khảo sát về tình hình lưu truyền, phổ biến của truyền thuyết Mạc Đăng Dung ở Kiến Thụy, Hải Phòng.
Dưới đây, chúng tôi đi vào khảo sát chi tiết về tình hình lưu truyền, phổ biến của truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở Kiến Thụy, Hải Phòng thông qua các phiếu điều tra đến từng nhóm đối tượng cụ thể. Từ đó, chúng tôi hi vọng tìm hiểu được phần nào thực trạng tồn tại của truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trong đời sống đương đại tại địa phương.
Ngoài việc gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn, chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra đến từng nhóm đối tượng cụ thể ở các độ tuổi khác nhau trên nhiều khu vực thuộc địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Tổng số phiếu chúng tôi điều tra là 282 phiếu. Số phiếu cụ thể được phân bổ đến từng nhóm đối tượng cụ thể như sau:
Học sinh tiểu học: 51 phiếu.
Học sinh trung học cơ sở: 126 phiếu.
Học sinh trung học phổ thông: 30 phiếu.
Đối tượng trong độ tuổi từ 55 đến 70: 75 phiếu.
Vì số phiếu phát ra trên mỗi nhóm đối tượng khác nhau nên để tiện cho việc khảo sát kết quả, chúng tôi thống nhất quy đổi số liệu thành đơn vị %.
2.1. Đặc điểm phân bố.
Tìm hiểu đặc điểm phân bố của truyền thuyết về Mạc Đăng Dung, chúng tôi tiến hành khảo sát tại năm xã trên địa bàn huyện Kiến Thụy bao gồm: Đông Phương, Ngũ Đoan, Tân Trào, Thuận Thiên, Thụy Hương.
Chúng tôi chọn năm xã trên bởi chúng mang những đặc điểm tiêu biểu nhất của các xã ở Kiến Thụy:
– Ngũ Đoan: quê hương của Mạc Đăng Dung, trung tâm của Dương Kinh xưa, làng Cổ Trai thuộc xã Ngũ Đoan là nơi phát tích của Mạc triều.
– Thụy Hương: quê của Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản vợ của Mạc Đăng Dung. Tại Thụy Hương, còn những di tích lịch sử của triều Mạc và đồng thời đây cũng là nơi Mạc Đăng Dung và Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản được tạc tượng thờ.
– Thuận Thiên: xã có một số di tích lịch sử của triều Mạc.Tại đây có chùa Hòa Liễu (Thiên Phúc Tự) do Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản xây dựng, hiện nay trong chùa vẫn còn thờ bài vị của Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản và Mạc Thái Tổ Mạc Đăng Dung. Đây cũng là nơi hiện vẫn duy trì được hội Minh Thề – hội thề do Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản tổ chức từ khi hưng công xây dựng chùa Hòa Liễu (Thiên Phúc Tự) nhằm kêu gọi tình đoàn kết và nhắc nhở người dân không được xâm phạm đến của công.
– Đông Phương: quê hương của Nguyễn Như Quế – vị đại thần có công lớn trong việc giúp Mạc Đăng Dung lên ngôi và bảo vệ ngai vàng của các vua triều Mạc. Hiện nay, Nguyễn Như Quế vẫn được thờ tại từ đường họ Nguyễn ở Đại Trà, Đông Phương. Từ đường này do các vua triều Mạc cho xây dựng và nhiều lần tu tạo để bày tỏ lòng cảm kích đối với vị công thần của triều đại mình.
– Tân Trào: xã không có di tích lịch sử nào liên quan đến nhà Mạc, cũng không phải là quê hương của bậc công thần danh tướng nào của Mạc triều. Tân Trào cách Ngũ Đoan một khoảng cách khá xa và giữa hai xã không có nhiều mối liên hệ về văn hóa và kinh tế.
Tiến hành khảo sát tại năm xã trên, chúng tôi chọn đối tượng điều tra là những người già trong độ tuổi từ 55 đến 70. Theo chúng tôi, ở độ tuổi này, mỗi người đã tích lũy được một vốn văn hóa phong phú đáng kể. Hơn nữa với tuổi tác, vốn sống, vốn văn hóa phong phú, họ là lượng lực chủ đạo trong hoạt động bảo lưu và truyền bá chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung. Do đó, tiến hành điều tra trên nhóm đối tượng này sẽ cho kết quả chính xác nhất về đặc điểm phân bố của truyền thuyết về Mạc Đăng Dung. Tại mỗi xã, chúng tôi chọn 15 người thuộc đủ các thành phần: cán bộ hưu trí, nông dân, người làm nghề tự do, buôn bán nhỏ… để khảo sát.
Kết quả khảo sát được thể hiện ở Bảng 2.1.1.
Nội dung Xã Khảo sát |
Đông Phương |
Ngũ Đoan |
Tân Trào |
Thuận Thiên |
Thụy Hương |
|
Đã nghe nhắc tới nhân vật Mạc Đăng Dung | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | |
Điểm đặc biệt của Mạc Đăng Dung | Sức khỏe phi thường | 100 | 100 | 47 | 100 | 100 |
Tướng mạo khác người | 67 | 100 | 27 | 100 | 100 | |
Do người Trời đầu thai | 0 | 12 | 0 | 93 | 47 | |
Có tài phép lạ | 0 | 33 | 0 | 13 | 0 | |
Nhận xét về Mạc Đăng Dung | Gian thần cướp ngôi nhà Lê | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Người lập nên triều Mạc | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | |
Người có ơn với nhân dân Kiến Thụy | 80 | 100 | 47 | 100 | 100 | |
Ý kiến khác | ||||||
Truyền thuyết về Mạc Đăng Dung đã được biết | 1 | 40 | 100 | 13 | 100 | 100 |
Từ 2 trở lên | 20 | 73 | 13 | 53 | 60 | |
Địa điểm thờ cúng Mạc Đăng Dung đã được biết | 1 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 |
Từ 2 trở lên | 33 | 100 | 27 | 100 | 100 |
Bảng 2.1.1. Kết quả điều tra mức độ hiểu biết về truyền thuyết Mạc Đăng Dung trên những đối tượng trong độ tuổi 55 đến 70 tại 5 xã thuộc địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (Đơn vị tính : % )
Nhận xét Bảng 2.1.1:
Qua bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy:
Tất cả những đối tượng chúng tôi tiến hành điều tra đều biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung và kể được ít nhất một truyền thuyết về nhân vật này. Đối với những xã có mối liên hệ trực tiếp với Mạc Đăng Dung như: Ngũ Đoan, quê hương của Mạc Đăng Dung; Thuận Thiên, Thụy Hương – hai xã có nhiều di tích lịch sử liên quan đến nhân vật này và ngày nay vẫn còn thờ cúng Mạc Đăng Dung thì đây là điều tất yếu, có thể lý giải được. Song đối với các xa chỉ có mối quan hệ gián tiếp như: Đông Phương- quê hương một bộ tướng của Mạc Đăng Dung; Tân Trào – địa điểm từng thuộc Dương Kinh xưa nhưng nay không còn di tích nào của nhà Mạc, cũng không có mối liên hệ nào với những bộ tướng, cận thần của Mạc Đăng Dung, việc những người dân đều biết đến truyền thuyết về Mạc Đăng Dung là một hiện tượng đặc biệt. Nó chứng tỏ tầm ảnh hưởng của Mạc Thái Tổ cũng như sức sống mạnh mẽ của chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên toàn huyện Kiến Thụy ngày nay.
Trong tâm thức của người dân Kiến Thụy, đặc điểm nổi bật nhất của Mạc Đăng Dung là sức khỏe phi thường. Hầu hết những người dân chúng tôi điều tra đều ghi nhớ đặc điểm này của Mạc Đăng Dung. Theo chúng tôi, Đây cũng là điều mà tất cả các sử sách khi ghi chép về Mạc Đăng Dung đều nhắc tới. Chính vì xuất phát từ một phần sự thực như thế, đặc điểm này ăn sâu trong lòng nhân dân và trở thành một điểm riêng biệt để nhận biết về Mạc Đăng Dung. Cá biệt, có những đối tượng không biết truyền thuyết nào về Mạc Thái Tổ nhưng vẫn ghi nhớ đặc điểm này. Theo chúng tôi, đó là hiện tượng phát tán các mảnh vụn của truyền thuyết: trong quá trình truyền miệng, những chi tiết, sự kiện của một truyền thuyết có thể bị tách rời, người tiếp nhận vì thế chỉ biết được một phần của tổng thể bị tách rời ấy.
Tất cả các đối tượng mà chúng tôi khảo sát đều kể được ít nhất một nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung và phần lớn trong số đó kể được từ hai nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy trở lên. Điều đó cho thấy truyền thuyết về Mạc Đăng Dung và tín ngưỡng dân gian ở nơi đây có mối liên hệ mật thiết với nhau. Đây là điều vẫn thường thấy đối với truyền thuyết. Nó cũng cho ta biện pháp để bảo lưu và phát triển truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở đây.
Tại các xã Ngũ Đoan, Thụy Hương, Thuận Thiên, người dân hiểu biết những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở mức độ sâu sắc nhất. Số người biết được từ hai truyền thuyết về Mạc Đăng Dung luôn chiếm trên 50% tổng số đối tượng khảo sát. Đây là điều dễ hiểu vì như chúng tôi đã lí giải ở trên Ngũ Đoan, Thụy Hương, Thuận Thiên là nơi có mối liên hệ trực tiếp với Mạc Đăng Dung, nơi Mạc Đăng Dung để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong tâm thức cộng đồng.
2.2. Mức độ phổ biến.
Khảo sát mức độ phổ biến của truyền thuyết Mạc Đăng Dung trong đời sống người dân Kiến Thụy ngày nay, chúng tôi tiến hành điều tra các đối tượng trên địa bàn Ngũ Đoan, Thụy Hương, Thuận Thiên. Đây là ba xã có số lượng người hiểu biết về truyền thuyết Mạc Đăng Dung lớn nhất trên địa bàn huyện Kiến Thụy. Do đó, tiến hành khảo sát tại đây sẽ có kết quả tiêu biểu và khái quát nhất. Tại địa bàn ba xã chúng tôi tiến hành khảo sát trên ba nhóm đối tượng: học sinh tiểu học (lớp 5), học sinh trung học cơ sở (lớp 9), và học sinh trung học phổ thông(lớp 12). Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng kết quả khảo sát từ những đối tượng 55 – 70 tuổi ở phần trước (xem Bảng 2.1.1) để so sánh.
2.2.1. Đối với đối tượng học sinh tiểu học, tôi tiến hành khảo sát mỗi lớp 27 đối tượng tại các lớp: 3A1 trường tiểu học xã Ngũ Đoan, 3A1 trường tiểu học xã Thuận Thiên, 3A1 trường tiểu học xã Thụy Hương.
Kết quả khảo sát được thể hiện ở Bảng 2.2.1:
Nội dung Xã điều tra |
Ngũ Đoan | Thuận Thiên | Thụy Hương |
Đã nghe nói đến nhân vật Mạc Đăng Dung | 100 | 55 | 30 |
Biết ít nhất một điểm đặc biệt của nhân vật Mạc Đăng Dung | 74 | 15 | 0 |
Kể được ít nhất một truyền thuyết về Mạc Đăng Dung | 11 | 0 | 7 |
Kể được ít nhất một nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung | 100 | 11 | 12 |
Bảng 2.2.1: Kết quả điều tra mức độ hiểu biết truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở đối tượng học sinh tiểu học tại 3 xã thuộc địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (Đơn vị tính: %).
Nhận xét bảng 2.2.1:
Kết quả điều tra đối với học sinh tiểu học tại ba xã Ngũ Đoan, Thuận Thiên, Thụy Hương đã cho thấy thực trạng rất đáng mừng: ngay từ bậc học tiểu học, các học sinh đã biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung. Tỉ lệ thấp nhất là ở Thụy Hương thì cũng có tới 30% số học sinh biết về nhân vật này. Theo điều tra của chúng tôi, đa phần các em biết về nhân vật Mạc Đăng Dung là do người thân hoặc giáo viên nhắc tới. Sở dĩ có kết quả cao như trên là vì trên địa bàn ba xã đều có nhiều di tích lịch sử liên quan đến Mạc Đăng Dung, học sinh thường xuyên được tiếp xúc với những di tích này, từ đó biết về nhân vật.
Ngũ Đoan là xã có số lượng học sinh biết về nhân vật Mạc Đăng Dung nhiều nhất, tỉ lệ học sinh biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung là 100%. Điều này có thể được lí giải bởi nguyên nhân khách quan: Ngũ Đoan là nơi phát tích của họ Mạc, nơi đây chủ yếu là người họ Mạc nên việc người dân biết về nhân vật Mạc Đăng Dung từ rất sớm là điều dễ hiểu. Hơn nữa, từ đường họ Mạc lại nằm gần ngay trường tiểu học xã Ngũ Đoan nên đây cũng là điều kiện thuận lợi để học sinh được biết về nhân vật này. Mức độ hiểu biết của học sinh xã Ngũ Đoan về nhân vật Mạc Đăng Dung cũng sâu sắc nhất trong ba xã, mặc dù mới ở độ tuổi tiểu học nhưng nhiều học sinh đã biết được ít nhất một truyền thuyết hoàn chỉnh về nhân vật này.
Hai xã Thuận Thiên và Thụy Hương chỉ có di tích lịch sử liên quan đến Mạc Đăng Dung: đó là hai ngôi chùa được xây dựng dưới thời Mạc, tại hai ngôi chùa này, nhân dân thờ Mạc Đăng Dung như phúc thần. Như vậy, ảnh hưởng của Mạc Đăng Dung tại hai xã này không sâu đậm như tại xã Ngũ Đoan. Hơn nữa, ảnh hưởng của tín ngưỡng đến đối tượng học sinh tiểu học không nhiều.Vì thế, tại hai xã này, đối tượng học sinh tiểu học biết về Mạc Đăng Dung chiếm số lượng khiêm tốn hơn.
Khảo sát trên đối tượng học sinh tiểu học, chúng tôi còn thấy một hiện tượng thú vị: có một số học sinh biết nơi thờ cúng nhưng không biết truyền thuyết về Mạc Đăng Dung – đây là những học sinh trên địa bàn xã Thuận Thiên. Nguyên nhân là do tại đây có chùa Hòa Liễu – di tích lịch sử cấp quốc gia thờ Mạc Đăng Dung và vợ là Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản. Tín ngưỡng bao giờ cũng có sức lan tỏa nhanh và rộng khắp nên việc học sinh tiểu học đã biết được nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung cũng không phải là hiện tượng quá đặc biệt. Những hiểu biết ban đầu này sẽ giúp các em có nền tảng để tiếp nhận những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung.
Một bộ phận nhỏ học sinh đã biết được nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung, được nghe kể ít nhất một truyền thuyết về nhân vật này nhưng lại không biết được những đặc điểm nổi bật của Mạc Đăng Dung vốn đang được đông đảo nhân dân biết đến như: sức khỏe phi thường, tướng mạo kì lạ… Đây là đối tượng trên địa bàn xã Thụy Hương – nơi đang thờ tượng của Mạc Đăng Dung và Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản. Phỏng vấn trực tiếp hai đối tượng đã biết được truyền thuyết về Mạc Đăng Dung, chúng tôi thấy các em đều kể lại được ngắn gọn truyền thuyết Sự tích Thiên Phúc Tự – truyền thuyết gắn liền với ngôi chùa trên địa bàn xã này và có lẽ rất phổ biến ở đây. Trong truyền thuyết này không hề đề cập đến đặc điểm nổi bật của Mạc Đăng Dung, vì vậy mặc dù biết được truyền thuyết về Mạc Thái Tổ và công đức của ông đối với nhân dân, các học sinh vẫn không biết đến đặc điểm phi thường nào của ông.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy đối với những học sinh đã nghe nói tới nhân vật Mạc Đăng Dung, thái độ của các em đối với vị vua này đều rất tốt. Đa phần các học sinh bày tỏ thái độ kính trọng đối với nhân vật này. Đây là điều kiện thuận lợi để đối tượng này tiếp nhận những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung.
Nhìn chung, ở lứa tuổi tiểu học, học sinh Kiến Thụy đã bắt đầu biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung và thậm chí một số ít còn biết được truyền thuyết về nhân vật này. Đây là tín hiệu đáng mừng hứa hẹn tương lai khả quan của truyền thuyết Mạc Đăng Dung trong lòng nhân dân. Hiện tượng một số học sinh tuy chưa biết được truyền thuyết nhưng đã biết được nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung là những hiện tượng có nguyên nhân khách quan cụ thể. Dù sao đây cũng mới là những học sinh ở bậc tiểu học nên sự hiểu biết, tìm tòi còn hạn chế. Song, với kết quả điều tra như trên, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng trong tương lai những học sinh này sẽ là lực lượng chủ đạo trong việc lưu truyền và phổ biến truyền thuyết về Mạc Đăng Dung.
2.2.2. Đối với đối tượng học sinh trung học cơ sở, chúng tôi tiến hành khảo sát các lớp 9A1 trường THCS Ngũ Đoan, lớp 9A1 trường THCS Thuận Thiên, lớp 9A1 trường THCS Thụy Hương; tại mỗi lớp, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 42 học sinh.
Kết quả khảo sát được thể hiện ở Bảng 2.2.2:
Nội dung Xã Khảo sát |
Ngũ Đoan |
Thuận Thiên |
Thụy Hương |
|
Đã nghe nhắc tới nhân vật Mạc Đăng Dung | 100 | 100 | 100 | |
Điểm đặc biệt của Mạc Đăng Dung | Sức khỏe phi thường | 100 | 55 | 67 |
Tướng mạo khác người | 93 | 24 | 40 | |
Do người Trời đầu thai | 30 | 0 | 0 | |
Có tài phép lạ | 4 | 0 | 0 | |
Nhận xét về Mạc Đăng Dung | Gian thần cướp ngôi nhà Lê | 0 | 0 | 0 |
Người lập nên triều Mạc | 100 | 100 | 100 | |
Người có ơn với nhân dân Kiến Thụy | 36 | 38 | 28 | |
Truyền thuyết về Mạc Đăng Dung đã được biết | 1 | 28 | 17 | 30 |
Từ 2 trở lên | 19 | 54 | 0 | |
Địa điểm thờ cúng Mạc Đăng Dung đã được biết | 1 | 100 | 38 | 67 |
Từ 2 trở lên | 5 | 0 | 0 |
Bảng 2.2.2: Kết quả điều tra mức độ hiểu biết truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở đối tượng học sinh THCS tại 3 xã thuộc địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (Đơn vị tính: %).
Nhận xét Bảng 2.2.2:
Ở đối tượng học sinh trung học cơ sở, do trình độ nhận thức phát triển hơn lứa tuổi tiểu học, học sinh được tham gia vào nhiều hoạt động nên vốn hiểu biết cũng phong phú hơn trước. Ở bậc học này, học sinh đã được học lịch sử, trong đó có đề cập đến Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, vì thế tỉ lệ học sinh biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung khá nhiều. Tỉ lệ học sinh biết được truyền thuyết về Mạc Đăng Dung cũng tăng đáng kể và mức độ hiểu biết cũng sâu hơn trước. Một số học sinh biết được từ hai đến ba truyền thuyết về Mạc Đăng Dung – đây là kết quả rất đáng mừng.
Các đối tượng học sinh trên cũng chỉ ra được những đặc điểm nổi bật của nhân vật Mạc Đăng Dung được đề cập đến trong các truyền thuyết như sức khỏe, về tướng mạo, về nguồn gốc thần kì. Đặc biệt có hiện tượng học sinh chỉ ra được những đặc điểm trên nhưng không biết được truyền thuyết hoàn chỉnh về nhân vật này. Đây là hiện tương phát tán các mảnh vụn của truyền thuyết mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Việc gia tăng số lượng và mức độ hiểu biết đối với những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung cho thấy quá trình phổ biến truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy bắt đầu có kết quả rõ rệt ở lứa tuổi này.
Ở bậc trung học cơ sở, mặc dù còn chưa trưởng thành hẳn, học sinh vẫn có những nhận xét, đánh giá đối với nhân vật này. Tất cả các ý kiến đối với nhân vật Mạc Đăng Dung đều rất tích cực. Theo chúng tôi, đó là do ảnh hưởng từ cộng đồng xung quanh. Thái độ tích cực của các đối tượng là bước chuẩn bị quan trọng để tiếp nhận cũng như phổ biến những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở những giai đoạn sau.
Mặc dù ở độ tuổi trung học cơ sở, một bộ phận không nhỏ học sinh đã biết đến nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung. Như vậy, tín ngưỡng dân gian bắt đầu có ảnh hưởng đến đối tượng này. Đó là tiền để để các em tìm hiểu và thu nhận những truyền thuyết gắn liền với nhân vật.
2.2.3. Đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, chúng tôi tiến hành lựa chọn 10 học sinh ở Ngũ Đoan, 10 học sinh ở Thuận Thiên, 10 học sinh ở Thụy Hương đang học tại các lớp 12A1, 12A2, 12A3, 12A4, 12A5 trường Trung học phổ thông Kiến Thụy để khảo sát.
Kết quả khảo sát được thể hiện ở Bảng 2.2.3:
Nội dung Xã Khảo sát |
Ngũ Đoan |
Thuận Thiên |
Thụy Hương |
|
Đã nghe nhắc tới nhân vật Mạc Đăng Dung | 100 | 100 | 100 | |
Điểm đặc biệt của Mạc Đăng Dung | Sức khỏe phi thường | 100 | 70 | 80 |
Tướng mạo khác người | 80 | 50 | 40 | |
Do người Trời đầu thai | 50 | 20 | 30 | |
Có tài phép lạ | 30 | 20 | 30 | |
Nhận xét về Mạc Đăng Dung | Gian thần cướp ngôi nhà Lê | 0 | 0 | 0 |
Người lập nên triều Mạc | 100 | 100 | 100 | |
Người có ơn với nhân dân Kiến Thụy | 80 | 100 | 90 | |
Truyền thuyết về Mạc Đăng Dung đã được biết | 1 | 80 | 60 | 70 |
Từ 2 trở lên | 30 | 40 | 30 | |
Địa điểm thờ cúng Mạc Đăng Dung đã được biết | 1 | 80 | 100 | 80 |
Từ 2 trở lên | 20 | 20 | 30 |
Bảng 2.2.3: Kết quả điều tra mức độ hiểu biết truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở đối tượng học sinh THPT tại 3 xã thuộc địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (Đơn vị tính: %).
Ở bậc trung học phổ thông, học sinh có bước phát triển lớn về nhận thức, tư duy nên mức độ hiểu biết về nhân vật Mạc Đăng Dung có bước phát triển vượt bậc. Hầu hết học sinh đều biết được ít nhất một truyền thuyết về nhân vật Mạc Đăng Dung. Số lượng học sinh kể được từ hai truyền thuyết trở lên cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Đây là điểm đáng mừng khẳng định sức sống của chuỗi truyền thuyết này và hiệu quả của quá trình truyền bá trong nhân dân.
Qua quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy học sinh phổ thông trung học phần lớn đều biết được những đặc điểm nổi bật của nhân vật Mạc Đăng Dung trong truyền thuyết như sức khỏe phi thường, tướng mạo kỳ lạ. Ngoài ra, một số ít học sinh còn nêu ra những yếu tố mang đậm tính chất thần kỳ như: Mạc Đăng Dung là người có tài phép lạ, do người trời đầu thai. Điều này có thể do học sinh được nghe kể lại hoặc tự suy đoán trên cơ sở những truyền thuyết đã được nghe kể. Đây cũng là hiện tượng đáng lưu ý. Theo chúng tôi, trên cơ sở tiếp thu những truyền thuyết được thế hệ trước kể lại, những học sinh này bắt đầu có những kiến giải, suy nghĩ, hư cấu của riêng mình về nhân vật. Đây là nền tảng để sau này, khi đạt đến một mức độ hiểu biết nhất định những học sinh này sẽ sáng tạo nên những truyền thuyết mới về nhân vật Mạc Đăng Dung.
Mức độ hiểu biết truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở ba xã xấp xỉ bằng nhau, tuy nhiên mức độ phổ biến ở xã Ngũ Đoan vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất, điều này đã có nền tảng từ các cấp học trước.
2.2.4. Khảo sát các đối tượng ở độ tuổi từ 55 đến 70 tại ba xã (Kết quả khảo sát đối với đối tượng ở độ tuổi từ 55 đến 70 tại 3 xã Ngũ Đoan, Thuận Thiên, Thụy Hương xin xem bảng 2.1.1.) chúng tôi nhận thấy:
– Do đặc điểm của độ tuổi, người dân có vốn sống, vốn hiểu biết văn hóa phong phú. Vì thế, mức độ hiểu biết những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung của nhóm đối tượng này vô cùng sâu sắc. Ngoài việc nắm rõ những đặc điểm đặc biệt về Mạc Đăng Dung trong truyền thuyết cũng như có những nhận xét xác đáng về nhân vật này, nhóm đối tượng này còn nắm tương đối kỹ về những địa điểm thờ cũng nhân vật Mạc Đăng Dung, những di tích lịch sử có liên quan đến người khởi đầu vương triều Mạc.
– Việc hiểu biết truyền thuyết về Mạc Đăng Dung luôn gắn liền với những hiểu biết lịch sử về nhân vật này. Tất cả các đối tượng mà chúng tôi khảo sát đều biết Mạc Đăng Dung là vị vua khởi đầu triều Mạc. Cùng với những hiểu biết ấy, người dân nơi đây cũng dành cho ông những tình cảm tốt đẹp. Đa phần người dân đều cho rằng Mạc Đăng Dung là người có ơn lớn đối với nhân dân Kiến Thụy ngày nay. Đặc biệt, ở các xã Ngũ Đoan, Thuận Thiên, Thụy Hương – nơi Mạc Đăng Dung có tầm ảnh hưởng sâu đậm – 100% số đối tượng đều thể hiện lòng biết ơn đối với ông.
– Ở độ tuổi này họ là lực lượng tích cực có vai trò quan trọng nhất trong việc truyền bá, phổ biến truyền thuyết về Mạc Đăng Dung tới các đối tượng khác. 100 % số đối tượng chúng tôi khảo sát đều đã từng kể những truyền thuyết mà họ biết cho đối tượng khác. Kèm theo những truyền thuyết ấy, tình cảm tốt đẹp mà họ dành cho Mạc Đăng Dung cũng ảnh hưởng tới đối tượng được truyền bá. Đó là cơ sở để các thế hệ sau tiếp tục sáng tạo nên những truyền thuyết đặc sắc về nhân vật Mạc Đăng Dung.
Kết quả khảo sát ở nhóm đối tượng này cho thấy rõ nhất bề rộng và chiều sâu của chuỗi truyền thuyết Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy.
3. Một số đề xuất, kiến nghị.
Ở thời điểm hiện tại, chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung vẫn có sức phổ biến rộng rãi trên địa bàn huyện Kiến Thụy. Hiện nay, những truyền thuyết này được lưu truyền phổ biến bằng phương thức truyền miệng. Đây là môi trường tồn tại tự nhiên của truyền thuyết. Song, trong bối cảnh văn hóa phức tạp hiện nay, di sản văn hóa quý giá này rất có thể bị mai một do một bộ phận nhân dân không còn thiết tha với những giá trị truyền thống.
Trước thực trạng đó, vấn đề bảo lưu và phát triển di sản văn hóa dân gian giá trị này đang đặt ra cấp bách. Trên cơ sở tìm hiểu về chuỗi truyền thuyết nói trên, nắm bắt được phần nào thực trạng phân bố, mức độ phổ biến của những truyền thuyết này, người viết mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm giúp chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung được bảo lưu nguyên vẹn và tiếp tục phát triển trong thời kì mới.
3.1. Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là việc văn bản hóa những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Văn bản không phải là môi trường tồn tại đích thực của truyền thuyết, song việc văn bản hóa có những điểm khả thủ mà chúng ta không thể phủ nhận:
– Trước hết, việc văn bản hóa giúp chúng ta thống kê, ghi lại được tương đối đầy đủ những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy. Số lượng truyền thuyết phong phú được tập hợp lại một cách bài bản sẽ giúp cho quá trình lưu truyền và phổ biến chuỗi truyền thuyết này được thuận lợi hơn cả ở trong và ngoài phạm vi địa phương. Đây cũng sẽ là nguồn tư liệu văn hóa dân gian quý giá đáng tin cậy đối với các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học. Từ đó, nó đóng vai trò là chiếc cầu nối dẫn các nhà khoa học đến những vấn đề thú vị vẫn còn đang bỏ ngỏ như: di sản văn hóa dân gian đặc sắc của dân Kiến Thụy, hệ thống những truyền thuyết phong phú về vương triều Mạc nói chung tại địa phương này. Truyền thuyết về Mạc Đăng Dung đặt trong mối quan hệ tương quan với truyền thuyết về các công thần của triều Mạc tại Kiến Thụy.
– Việc văn bản hóa về Mạc Đăng Dung ở thời điểm hiện tại cũng góp phần cố định hóa số lượng truyền thuyết, tránh cho những truyền thuyết trên bị mai một do những yếu tố khách quan tác động Đồng thời, việc làm này cũng cho ta một lát cắt đồng đại của các truyền thuyết về nhân vật Mạc Đăng Dung. Đây là căn cứ để thực hiện việc nghiên cứu quá trình vận động của chuỗi truyền thuyết này trong tương lai.
– Những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung tại Kiến Thụy, Hải Phòng chỉ là một phần rất nhỏ trong hệ thống truyền thuyết về vương triều Mạc tại Hải Phòng nói riêng và trên cả nước nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian qua, những truyền thuyết này chưa được quan tâm nghiên cúu. Văn bản hóa những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy là tiền đề cho công tác sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết về Mạc Đăng Dung nói riêng và truyền thuyết về vương triều Mạc nói chung tại các địa phương khác trên cả nước. Đây là hành động thiết thực có tác dụng bổ sung một bộ phận quan trọng vào kho tàng truyền thuyết dân gian người Việt mà lâu nay ít có nhà nghiên cứu nào quan tâm đến.
Với những điểm khả thủ như trên, văn bản hóa chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung tại huyện Kiến Thụy là một việc làm tất yếu và cần được tiến hành trong thời gian sớm nhất.
Văn bản hóa truyền thuyết dân gian là công việc phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp từ nhiều đối tượng. Vì vậy, công tác văn bản hóa chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng cần được tiến hành một cách cụ thể, khoa học với sự tham gia của đông đảo nhân dân trên địa bàn Kiến Thụy; các cơ quan quản lý về văn hóa cấp xã, huyện, thành phố và cả các cấp chính quyền; đặc biệt là sự tham gia của các nhà khoa học chuyên về lĩnh vực văn hóa dân gian.
Việc văn bản hóa truyền thuyết về Mạc Đăng Dung cần được tiến hành rộng khắp trên địa bàn huyện Kiến Thụy nhưng trước hết phải bắt đầu và tập trung tìm hiểu tại các xã có mối liên hệ trực tiếp với nhân vật Mạc Đăng Dung như Ngũ Đoan- nơi phát tích của Mạc Đăng Dung; Thuận Thiên, Thụy Hương – hai xã hiện tại vẫn đang thờ cúng Mạc Đăng Dung và cũng là nơi có di tích lịch sử liên quan trực tiếp đến nhân vật này.
Theo chúng tôi, khi tiến hành văn bản hóa chuỗi truyền thuyết phong phú nói trên, công tác điền dã là việc phải tiến hành trước nhất, để đảm bảo tính khách quan và khoa học của công việc. Trong quá trình điền dã, các nhà khoa học và các cán bộ văn hóa tại địa phương phải có sự phối hợp chặt chẽ để tiến hành điền dã đúng địa điểm, tiếp xúc đúng đối tượng, có như vậy công tác điền dã mới thực sự hiệu quả.
Cuối cùng, kết quả của việc văn bản hóa này cần được tập trung và in thành sách. Trong đó, các nhà khoa học không chỉ ghi lại chi tiết các truyền thuyết đã thống kê được mà còn phải có thêm những bài nghiên cứu cụ thể về chuỗi truyền thuyết này. Như vậy sự tiếp nhận của người đọc sẽ được định hướng, quá trình lưu truyền và phát triển chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung vì thế cũng diễn ra thuận lợi cả về bề rộng và bề sâu.
3.2. Truyền thuyết và tín ngưỡng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Truyền thuyết là xương sống của tín ngưỡng. Ngược lại, tín ngưỡng là cầu nối để truyền thuyết lan tỏa và đọng lại trong tâm thức người dân. Do đó, để gìn giữ và phát triển chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung, chính quyền và các bộ phận quản lý văn hóa cần có chính sách khuyến khích những tín ngưỡng đúng đắn. Đối với những nơi thờ cúng Mạc Đăng Dung- vốn cũng là những di tích lịch sử đã được xếp hạng, chính quyền cần có kế hoạch trùng tu, nâng cấp, để việc sinh hoạt tín ngưỡng lành mạnh của nhân dân được diễn ra trong hoàn cảnh thuận lợi. Tại những nơi này, các cấp quản lý văn hóa có thể cho đặt những tấm biển giới thiệu khái quát về đối tượng được thờ cúng như Mạc Đăng Dung, Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản. Việc làm này sẽ có tác dụng định hướng đúng đắn cho tín ngưỡng của nhân dân. Từ việc hiểu biết về đối tượng được tôn vinh, nhân dân sẽ có mong muốn tìm hiểu thêm những sự tích, những truyện kể về đối tượng ấy.
Trong môi trường văn hóa phức tạp như hiện nay, những tín ngưỡng dân gian luôn có xu hướng bị các cá nhân lợi dụng để tiến hành các hoạt động mê tín dị đoan nhằm trục lợi. Đây đang là thực trạng phổ biến tại nhiều nơi trên địa bàn Kiến Thụy. Điều đó không chỉ khiến những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung bị mai một, bị xuyên tạc, bóp méo mà còn làm cho môi trường văn hóa của địa phương bị ảnh hưởng. Trước thực trạng ấy, các cấp quản lý văn hóa, chính quyền cần có những biện pháp cương quyết, kịp thời triệt để nghiêm cấm các hình thức mê tín dị đoan, tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân để hướng nhân dân đến tín ngưỡng lành mạnh.
3.3. Kiến Thụy xưa kia từng là Dương Kinh của nhà Mạc- một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng. Tại đây, nhà Mạc đã xây dựng nhiều cung điện nguy nga, các đình chùa, miếu mạo, các bến cảng, chợ, cầu, quán… Cho dù sau này, nhà Lê- Trịnh có ra lệnh san phẳng Dương Kinh, tàn sát con cháu họ Mạc, nhân dân Dương Kinh vẫn tìm cách bảo vệ những công trình này cũng như tiếp tục lưu truyền và sáng tạo ra những truyền thuyết mới về nhân vật Mạc Đăng Dung. Nhờ thế, trên địa bàn huyện Kiến Thụy ngày nay vẫn còn nhiều di tích lịch sử của nhà Mạc. Mỗi di tích đều ẩn chứa trong lòng nó những câu chuyện lịch sử thú vị. Sự tồn tại của các di tích lịch sử thời Mạc trên địa bàn Kiến Thụy ngày nay có vai trò quan trọng trong việc gợi cho người dân nhớ về quá khứ vàng son khi xưa và in đậm dấu ấn của Mạc triều trong lòng dân chúng. Đó là tiền đề thuận lợi để người dân tìm hiểu thêm về lịch sử nhà Mạc cũng như truyền thuyết về nhân vật Mạc Đăng Dung.
Do đó, chính quyền địa phương nên có sự phối hợp với nhân dân cũng như các cấp quản lý để có biện pháp kịp thời tôn tạo, bảo vệ các di tích này. Trong quá trình tôn tạo, cần chú ý tôn trọng dáng vẻ ban đầu của di tích, tránh việc “mới hóa” khiến chúng mất đi vẻ đẹp cổ kính, gây nên tâm lý hụt hẫng đối với nhân dân. Bên cạnh đó, các cấp lãnh đạo và bộ phận phụ trách văn hóa, thể thao, du lịch cũng cần có kế hoạch cụ thể để giới thiệu các di tích ấy với người dân trong cả nước. Đây là cầu nối quan trọng để phổ biến những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ra ngoài phạm vi huyện Kiến Thụy.
Đối với các di chỉ khảo cổ học không thể trùng tu, chính quyền cần có sự phối hợp với bảo tàng và các nhà khảo cổ học để đặt ra kế hoạch khai quật và bảo tồn các di chỉ, hiện vật ấy. Đồng thời, cũng cần có biện pháp giới thiệu những hiện vật đó tới đông đảo người dân để họ hiểu thêm về triều đại Mạc, từ đó khơi dậy mong muốn tìm hiểu khám phá của người dân.
3.4. Việc phổ biến, tuyên truyền những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trước hết cần phải được tiến hành rộng khắp trên địa bàn huyện Kiến Thụy và phải đặc biệt chú trọng tới đối tượng học sinh. Đây là độ tuổi có năng lực tiếp thu, tìm tòi và sáng tạo cao nhất. Phổ biến truyền thuyết tới đối tượng này là biện pháp tốt nhất để bảo lưu và phát triển di sản văn hóa quý giá này của địa phương.
Qúa trình phổ biến chuỗi truyền thuyết nói trên tới đối tượng học sinh cần phải được tiến hành một cách khéo léo, kết hợp giữa học tập và vui chơi để gây hứng thú đối với học sinh. Các giáo viên có thể ra các bài tập ngoại khóa yêu cầu học sinh tìm hiểu, thu thập truyền thuyết về Mạc Đăng Dung hoặc thông qua các cuộc tham quan, dã ngoại đến các di tích lịch sử thời Mạc trên địa bàn huyện Kiến Thụy để khơi dậy trong học sinh mong muốn tìm hiểu khám phá về những di tích ấy. Đó là những con đường tự nhiên để học sinh chủ động tìm hiểu những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung – như thế những truyền thuyết này sẽ để lại dấu ân sâu sắc trong tâm thức các em. Đây là nền tảng để khi trưởng thành, những học sinh này tiếp tục có hứng thú muốn khám phá tìm hiểu thêm về chuỗi truyền thuyết nói trên.
Trên đây là một số biện pháp chúng tôi đề xuất để giúp chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ngày càng được phổ biến về chiều sâu và chiều rộng. Tuy nhiên, khi tiến hành các biện pháp ấy chúng ta cần lưu ý đến đặc trưng của truyền thuyết. Truyền thuyết được lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng trong nhân dân; quá trình hình thành, diễn tiến của truyền thuyết rất lâu dài và phức tạp. Vì thế, khi tiến hành các biện pháp nêu trên, người thực hiện phải cân nhắc kỹ các yếu tố khách quan và chủ quan để những biện pháp ấy thực sự phù hợp với hoàn cảnh và đạt hiệu quả cao nhất.
*Tiểu kết:
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ngày nay vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Kiến Thụy, Hải Phòng. Một trong những lí do làm nên sức sống bền bỉ của chuỗi truyền thuyết ấy là sự tồn tại của những lễ hội và tín ngưỡng tôn vinh Mạc Đăng Dung tại địa phương. Qua điều tra đối với nhiều nhóm đối tượng ở những độ tuổi khác nhau trên địa bàn huyện Kiến Thụy chúng tôi nhận thấy: truyền thuyết Mạc Đăng Dung được phổ biến rộng khắp trên địa bàn toàn huyện nhưng chủ yếu tập trung ở những địa bàn có mối liên hệ trực tiếp với Mạc Đăng Dung. Ở những địa bàn ấy, mức độ hiểu biết của người dân đối với chuỗi truyền thuyết này rất sâu sắc. Ngay từ lứa tuổi tiểu học, các em học sinh đã biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung. Độ tuổi càng cao, mức độ hiểu biết càng sâu rộng. Đặc biệt tất cả các đối tượng đều bày tỏ tình cảm yếu mến kính trọng đối với Mạc Đăng Dung. Điều đó còn cho thấy tầm ảnh hưởng của Mạc Thái Tổ đối với người dân Dương Kinh xưa.
Tuy nhiên, trong môi trường văn hóa phức tạp ngày nay, truyền thuyết về Mạc Đăng Dung đang có nguy cơ bị mai một. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp bách với người dân Kiến Thụy nói riêng và các tổ chức cơ quan quản lý về văn hóa nói chung. Song, việc tiến hành các biện pháp bảo lưu và phát triển nguồn truyền thuyết về Mạc Đăng Dung cần phải được tiến hành một cách thận trọng, khách quan phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương để tránh việc làm tổn hại đến di sản văn hóa dân gian quý giá này.
C. KẾT LUẬN
1. Kiến Thụy là vùng đất có vị trí quan trọng ở phía nam của thành phố Hải Phòng. Điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi cùng lịch sử nhiều biến động đã hình thành nên phẩm chất vừa cần cù, nhẫn nại, vừa kiên cường, quyết liệt của người dân nơi đây.
Kiến Thụy cũng là một vùng đất văn hóa với nhiều lễ hội dân gian độc đáo, những tín ngưỡng đậm tính nhân văn và bộ phận văn học dân gian mang bản sắc riêng biệt của địa phương. Mảnh đất giàu tinh thần thượng võ miền Hải Đông này đã sinh ra một người con kiệt xuất: Mạc Đăng Dung- người không những ghi dấu ấn của vùng Nghi Dương (Kiến Thụy xưa) trong lịch sử như một vùng đất địa linh nhân kiệt, chốn căn bản của bậc đế vương mà còn xây dựng mảnh đất này thành một trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVI. Với những công lao to lớn ấy, Mạc Đăng Dung đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm thức người dân Kiến Thụy – Dương Kinh xưa của nhà Mạc. Vì thế, bất chấp sự trả thù tàn bạo và cấm đoán ngặt nghèo của nhà Lê – Trịnh, bất chấp thái độ lên án của các sử gia hậu thế và dư luận của một bộ phận không nhỏ trong xã hội, người dân Kiến Thụy- Dương Kinh xưa vẫn ra sức bảo vệ các di tích lịch sử của Mạc triều cũng như tiếp tục sáng tác, lưu truyền những truyền thuyết ca ngợi Mạc Đăng Dung – vị vua khởi lập vương triều Mạc. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, ngày nay, truyền thuyết về Mạc Đăng Dung vẫn tồn tại sâu rộng ở Kiến Thụy- Hải Phòng và trở thành di sản văn hóa dân gian đặc sắc của người dân nơi đây.
2. Số lượng truyền thuyết về Mạc Đăng Dung hiện còn tồn tại cho đến nay ở Kiến Thụy khá phong phú. Theo thống kê của chúng tôi, số lượng này là mười một truyền thuyết. Đây là số lượng không thua kém so với truyền thuyết về các vị vua khởi đầu một số triều đại trong lịch sử Việt Nam như Lý Công Uẩn, Lê Lợi… Nó phản ánh ảnh hưởng sâu đậm của Mạc Đăng Dung trong tiềm thức người dân Dương Kinh xưa. Các truyền thuyết về Mạc Đăng Dung còn lại cho đến nay bao gồm cả những mẩu kể ngắn gọn, súc tích và những truyện kể sinh động, giàu tính nghệ thuật. Do tác động khách quan của lịch sử, trong số các truyền thuyết đó không có truyền thuyết nào nói về chung cục của nhân vật. Đây là nét riêng của chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn Kiến Thụy, Hải Phòng.
Hình tượng Mạc Đăng Dung trong truyền thuyết là một sự thách thức của nhân dân Dương Kinh xưa đối với quan điểm của các sử gia phong kiến. Trong khi các sử gia cùng nhau lên án Mạc Đăng Dung là kẻ nghịch thần cướp ngôi, bán nước thì nhân dân lại xây dựng hình tượng vị vua khởi đầu triều Mạc với nhân phẩm hơn người và tài năng xuất chúng. Mạc Đăng Dung được suy tôn như một anh hùng văn hóa, một phúc thần có công giúp nhân dân ổn định đời sống vật chất và tâm linh. Sự trái ngược trong quan điểm của sử gia và của nhân dân đối với Mạc Đăng Dung đã đặt ra yêu cầu khoa học: cần tham khảo thái độ, quan điểm của nhân dân để có cách đánh giá toàn diện hơn về vai trò của Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam.
3. Để khắc họa hình tượng Mạc Đăng Dung trong truyền thuyết, các tác giả dân gian đã sử dụng nhiều mô típ quen thuộc: mô típ Sự ra đời thần kì, mô típ Tướng lạ – tài lạ, mô típ Được lực lượng siêu nhiên phù trợ, mô típ Được huyệt đất phát mạch đế vương. Tất cả các mô típ trên đều có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau để tập trung làm nổi bật mối liên hệ đặc biệt của Mạc Đăng Dung với lực lượng siêu nhiên. Trong truyền thuyết, mọi bước đường của Mạc Đăng Dung đều có sự hiện diện, phù trợ kịp thời của lực lượng đặc biệt này. Đây là dụng ý nghệ thuật thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc và sự bênh vực tuyệt đối của nhân dân Dương Kinh xưa đối với Mạc Đăng Dung. Không chỉ xây dựng hình tượng một Mạc Đăng Dung toàn tài toàn đức, có đủ tư chất để tiếp nhận ngôi vị đế vương, người dân Dương Kinh xưa còn mượn những yếu tố siêu nhiên để tăng thêm sức nặng của lời khẳng định: Mạc Đăng Dung lên ngôi là hoàn toàn xứng đáng, là hợp lòng dân và lẽ trời.
4. Mặc dù được lưu truyền hoàn toàn bằng phương thức truyền miệng, chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ngày nay vẫn có sức sống mạnh mẽ, tầm phổ biến rộng khắp tại địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Trong đó, chuỗi truyền thuyết phổ biến nhất ở những địa điểm có mối liên hệ trực tiếp với Mạc Đằng Dung như: nơi phát tích của Mạc Đăng Dung, nơi Mạc Đăng Dung đang được thờ cúng hoặc nơi có những di tích lịch sử liên quan đến nhân vật này. Đặc điểm phân bố như trên của chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung là hiện tượng hợp lẽ tự nhiên song cũng là một vấn đề đặt ra cho địa phương: nếu tình trạng này tiếp diễn có thể phạm vi phổ biến của những truyền thuyết trên sẽ bị thu hẹp dần. Để khắc phục điều này cần có những biện pháp cụ thể và sự phối hợp từ nhiều ban ngành khác nhau.
Qua khảo sát chi tiết các nhóm đối tượng ở những độ tuổi khác nhau trên địa bàn một số xã ở huyện Kiến Thụy, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết về Mạc Đăng Dung không chỉ được phổ biến trên diện rộng mà còn đạt tới bề sâu trong tầm nhận thức của nhân dân. Ngay từ độ tuổi tiểu học, các học sinh đã bước đầu biết đến nhân vật Mạc Đăng Dung và cá biệt một vài học sinh còn biết được những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung qua lời kể của thầy cô giáo, người thân. Ở độ tuổi càng cao, kinh nghiệm sống, vốn văn hóa càng phong phú thì những hiểu biết của người dân đối với những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung càng sâu sắc. Không chỉ nghe kể lại, mỗi người dân Kiến Thụy đều có ý thức truyền bá, phổ biến những truyền thuyết ấy tới đối tượng khác. Nhờ thế, chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung luôn ở trong thế vận động, được lan truyền rộng khắp trong nhân dân và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Mức độ hiểu biết về truyền thuyết Mạc Đăng Dung trong nhân dân luôn tỷ lệ thuận với những hiểu biết về những di tích lịch sử, những nơi thờ cúng nhân vật này. Điều này phản ánh mối quan hệ gắn bó tự nhiên giữa truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian. Nhờ mối quan hệ chặt chẽ này, chừng nào tín ngưỡng đồi với Mạc Đăng Dung còn tồn tại trên địa bàn Kiến Thụy, chừng ấy truyền thuyết về Mạc Đăng Dung vẫn còn tồn tại trong lòng người dân.
5. Nhằm giúp chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung có sức sống lâu bền và mức độ phổ biến rộng khắp, người viết có một số đề xuất:
– Công việc quan trọng nhất trong thời điểm hiện tại là văn bản hóa chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung trên địa bàn huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Việc này không những giúp chuỗi truyền thuyết trên tránh khỏi nguy cơ bị mai một mà còn tạo cơ sở thuận lợi cho những nghiên cứu khoa học trong tương lai.
Văn bản hóa là một việc làm công phu, mang tính chất khoa học cao. Do đó, công việc này đòi hỏi sự tham gia của đông đảo người dân, của các cấp chính quyền và đặc biệt là sự tham gia của các nhà khoa học thuộc chuyên ngành Văn hóa dân gian.
– Cần tiến hành trùng tu khôi phục các di tích lịch sử của nhà Mạc trên địa bàn huyện Kiến Thụy. Đây là việc làm cần thiết giúp truyền thuyết đi vào đời sống một cách tự nhiên nhất. Bên cạnh đó, đối với tín ngưỡng thờ cúng Mạc Đăng Dung của nhân dân nơi đây, các cấp chính quyền cũng cần có sự quan tâm đặc biệt để phát huy những mặt tích cực và kịp thời hạn chế những mặt tiêu cực như hiện tượng một số cá nhân dựa vào tín ngưỡng này để tuyên truyền mê tín dị đoan, kinh doanh trục lợi.
– Cần khuyến khích việc phổ biến truyển thuyết về Mạc Đăng Dung trên nhiều đối tượng cụ thể, đặc biệt là đối tượng học sinh bởi đây là đối tượng có khả năng tiếp nhận nhanh nhất cái mới, có đủ năng lực và sự nhạy bén để tiếp tục tự tìm hiểu, khám phá và sáng tạo thêm nguồn tư liệu văn học dân gian phong phú này. Nhà trường có thể tổ chức những buổi tham quan, dã ngoại đến các di tích lịch sử của nhà Mạc, thăm những địa điểm có liên quan đến Mạc Đăng Dung để khơi dậy hứng thú khoa học cũng như niềm tự hào đối với quê hương của học sinh. Đối với những người dân trên điạ bàn Kiến Thụy, những việc làm trên chắc chắn sẽ được thực hiện thuận lợi bởi đây là nơi tập trung nhiều nhất những di tích lịch sử có liên quan đến Mạc Đăng Dung.
6. Là một vương triều với 65 năm đóng đô ở Thăng Long và gần 90 năm cát cứ tại Cao Bằng, nhà Mạc đã có những đóng góp nhất định đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa của nước ta – nhất là tại nơi phát tích của nhà Mạc (Hải Phòng, Hải Dương) và những nơi nhà Mạc cát cứ (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang)… Dấu ấn sâu đậm mà nhà Mạc để lại trong tâm thức người dân ở những vùng đất này là điều không thể phủ nhận. Tại đây, cùng với nhiều di tích lịch sử của nhà Mạc được nhân dân lưu giữ đến ngày nay, những truyền thuyết về vương triều Mạc hẳn vẫn còn in đậm trong tâm trí người dân. Những truyền thuyết về Mạc Đăng Dung tại vùng Kiến Thụy, Hải Phòng mà chúng tôi nghiên cứu trong luận văn này chỉ là một bộ phận nhỏ trong hệ thống truyền thuyết về vương triều Mạc đang tồn tại ở những vùng đất nói trên. Đáng tiếc là, trong một thời gian dài, do ảnh hưởng của lịch sử, những truyền thuyết về nhà Mạc chưa được quan tâm nghiên cứu. Vì thế, với những kết quả bước đầu của luận văn, chúng tôi thấy việc tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu những truyền thuyết về vương triều Mạc tại những nơi nhà Mạc có ảnh hưởng sâu đậm là việc làm cần thiết để bổ sung một bộ phận quan trọng vào kho tàng truyền thuyết người Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chiêng Xom An, Bàn thêm về thể loại truyền thuyết, TC Văn học số 2/1992.
Trần Thị An, Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân gian việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, H, 2000.
Trần Thị An, Nghiên cứu truyền thuyết – những vấn đề đặt ra, TC Văn học số 7/1994.
Trần Thị An, Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif – những khả thủ và bất cập, TC Nghiên cứu Văn học số 7/2008.
Trần Thị An, Quan niệm về thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong truyện văn xuôi trung đại, TC Văn học số 3/2003.
Trần Thị An, Văn bản hóa truyện dân gian Việt Nam nhìn từ cuối thế kỉ XX, TC Văn học số 5 /2001.
Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin, H, 2005.
Ban liên lạc họ Mạc, Hợp biên thế phả họ Mạc, Nxb Văn hoá dân tộc, H, 2007.
Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1996.
Huy Cận, Văn nghệ dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc, TC Văn hóa dân gian số 1/1983.
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng – Trường viết văn Nguyễn Du, 1997.
Nguyễn Đổng Chi, Văn học dân gian là một kho tàng quý báu cho sử học, TC Văn học số 1/1967.
Nguyễn Du Chi, Mỹ thuật thời Mạc – một vài nét khái quát, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng, 1991.
Lương Minh Cường, Tìm hiểu lễ hội Minh Thề ở Hòa Liễu – Kiến Thụy – Hải Phòng, Luận án thạc sĩ khoa học Việt Nam học, Trường ĐH Văn hóa, H, 2007.
Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể Việt Nam đọc bằng type và motif, Nxb Khoa học xã hội, H, 2001.
Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Dóng, Nxb Khoa học xã hội, H, 1969.
Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, 1974.
Cao Huy Đỉnh, Vị trí của văn học dân gian từng làng trong khoa nghiên cứu văn học dân gian, TC Văn học số 8/1968.
Hải Đoan, Sơ lược về văn học đời Mạc, TC Cửa Biển số 75/2004.
Lê Quý Đôn, Đại việt thông sử (Ngô Thế Long dịch), Nxb Văn hóa thông tin, H, 2007.
Trần Hương Giang, Truyền thuyết và lễ hội về Trần Quốc Tảng ở Cửa Ông, Cẩm Phả, Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2005.
Nguyễn Bích Hà, Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian (Đề cương bài giảng sau đại học), H, 2007 (Tài liệu chưa xuất bản).
Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, H, 1998.
Vũ Thị Hải, Hội Minh Thề – một lễ hội độc đáo của vùng Kiến Thuỵ, Hải Phòng, Báo Văn nghệ trẻ số 6,7,8/2007.
Trịnh Minh Hiên (chủ biên), Lễ hội truyền thống tiêu biểu ở Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, 2006.
Nguyễn Duy Hinh, Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, 1996.
Kiều Thu Hoạch, Văn học dân gian người Việt – Góc nhìn thể loại, Nxb Khoa học xã hội, H, 2006.
Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng, Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Nxb Hải Phòng, 1996.
Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng, Địa chí Hải Phòng (Tập 1), Nxb Hải Phòng, 1990.
Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng, Văn hoá văn nghệ dân gian Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, 2001.
Hội sử học Hải Phòng, Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, Nxb Thống kê, H, 2000.
Phạm Đình Huỳnh, Phạm Chiến Khu, Nghiên cứu xã hội học: thủ tục, hình thức, phương pháp, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1995.
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000.
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H, 2001.
Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận, Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H, 1995.
Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Chùa cổ Việt Nam, Nxb Thanh niên, H, 2006.
Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Đền miếu Việt Nam, Nxb Thanh niên, H, 2007.
Lưu Văn Khuê, Mạc Đăng Dung (Tiểu thuyết lịch sử), Nxb Hải Phòng, 2007.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Thanh Hóa, 2006.
Lê Văn Kỳ, Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng, Nxb Khoa học xã hội, H, 1997.
Lê Văn Kỳ, Tìm hiểu một số ý nghĩa về tục thờ thành hoàngkhông có sắc phong qua truyền thuyết và lễ hội, TC Văn hóa dân gian số 4/1993.
Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, Dõi tìm tông tích người xưa, Nxb Tuổi trẻ, 1998.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử kí toàn thư (Tập 2) (Cao Huy Giu dịch) (tái bản), Nxb Văn hóa thông tin, 2004.
Ngô Đăng Lợi, Mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với triều Mạc (In trong Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), Nxb Hải Phòng, 1991.
Ngô Đăng Lợi, Sách lược ngoại giao của nhà Mạc, TC Cửa Biển số 75/2004.
Hoàng Lưu, Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, TC Cửa Biển số 75/2004.
Quang Ngọc, Gốm sứ thời Mạc, TC Cửa Biển số 75/2004.
Bùi Văn Nguyên, Thần thoại và truyền thuyết, Nxb Cà Mau, 1993.
Nguyễn Thị Nguyệt, Khảo sát và so sánh một số tip và môtip truyện cổ dân gian Việt Nam – Nhật Bản, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, H, 2000.
Nhà xuất bản Hải Phòng, Thành phố hoa phượng đỏ, 1985.
Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn học dân gian – những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, H, 1999.
Nhiều tác giả, Phương pháp sưu tầm văn học dân gian ở nông thôn, Vụ văn hóa quần chúng xuất bản, H, 1969.
Lê Trường Phát, Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H, 2000.
Trần Phương, Di sản văn hoá lộ thiên mang phong cách nghệ thuật thời Mạc ở trung tâm Dương Kinh xưa, TC Cửa Biển số 75/2004.
Trần Phương, Du lịch văn hoá Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, 2006.
Lê Xuân Quang, Thần tích Việt Nam (2 tập), Nxb Văn hóa thông tin, H, 1995.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tập 2) (tái bản), Nxb Giáo dục, H, 2007.
Lương Cao Rính, Giai thoại trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng, 2006.
Nguyễn Văn Sơn, Di tích thời Mạc vùng Dương Kinh (Hải Phòng), Nxb Khoa học xã hội, H, 1997.
Bùi Quang Thanh, Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng, TC Văn học số 3/1981.
Đinh Khắc Thuân, Lịch sử triều Mạc qua thư tịch, văn bia, Nxb Khoa học xã hội, H, 2001.
Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học xã hội, H, 1996.
Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại (Tập 6), Nxb Giáo dục, 2007.
Phan Trần, Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử, TC Văn học số 5/1967.
Đỗ Bình Trị, Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, H, 1978.
Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H, 1999.
Vũ Anh Tuấn, Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số tip truyện kể dân gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, H, 1991.
Trương Đình Tưởng, Truyền thuyết Đinh – Lê (tái bản), Nxb Văn hoa dân tộc, H, 2007.
Uỷ ban nhân dân huyện Kiến Thuỵ, Lịch sử đảng bộ huyện Kiến Thuỵ, Nxb Hải Phòng, 2004.
Viện KHXH Việt Nam, Tổng tập văn học dân gian người Việt (Tập 4, 5): Truyền thuyết dân gian người Việt, Nxb Khoa học xã hội, H, 2004.
Viện Sử học, Vương triều Mạc, Nxb Khoa học xã hội, H, 1996.
Viện văn hoá dân gian, Văn hoá dân gian – những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, 1989.
Viện văn hoá dân gian, Văn hoá dân gian – những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, 1990.
Trần Quốc Vượng, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thế kỉ XVI (In trong Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), Nxb Hải Phòng, 1991.
Hoàng Thị Khánh Xuân, Truyền thuyết Bàn Hồ và tục thờ cúng Bàn Hồ của người Dao Lô Gang ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Luận án thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H, 2007.
Nguyễn Khắc Xương, Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục, TC Văn học số 6/1973.
Phạm Thu Yến (chủ biên), Giáo trình văn học dân gian (Dành cho ngành Ngữ văn hệ đào tạo tại chức từ xa), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, H, 2005.
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.