Những lời vàng trên đá
Nguyễn Xuân Diện
Lâu nay chúng ta biết các dòng họ thường có quyển gia huấn, viết bằng chữ Hán Nôm, được lưu truyền trong gia đình, gia tộc. Nói đến gia huấn, người ta vẫn nghĩ đến một cuốn sách giấy dó, trên viết chữ Hán Nôm, ít người biết gia huấn còn được khắc trên đá.
Đó là những quyển sách đá ghi những lời vàng ngọc của tổ tiên truyền dạy lại, trải mấy trăm năm còn ngời nghĩa nhân, đạo lý. Bài này giới thiệu về những quyển gia huấn bằng đá đặc biệt, của một số dòng họ đặc biệt. Tất cả các văn bia này đều đang được các dòng họ trân trọng gìn giữ và đều có bản in rập đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Tại miếu làng Tiên Điền của thi hào Nguyễn Du, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh vẫn còn tấm văn bia Tích thiện gia huấn bi ký. Văn bia do Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm soạn năm 1765, khi ông đang giữ chức Binh bộ thị lang. Văn bia ghi lại lời dạy của ông đối với con cháu trong gia tộc, khuyên giữ gìn gia phong, tu dưỡng đạo đức, dốc sức làm việc thiện để vun trồng cội phúc, làm gương cho hậu thế.
Có lẽ vì phúc ấm tổ tiên và lời vàng của tổ tiên đời trước được đám cháu con ghi nhớ mà gia đình họ Nguyễn Tiên Điền này đã có nhiều người được nắm giữ nhiều trọng trách của triều đình. Phạm Đình Hổ dành cả một bài để viết về sự “vinh hoa phú quý đến cực điểm “Nhà họ Nguyễn ở Tiên Điền” trong sách Vũ trung tuỳ bút.
Khi Nguyễn Khản, con trai của Nguyễn Nghiễm thi đỗ Tiến sĩ, ngày ban yến ở nhà khánh tiết của bộ Lễ, chính cha mình bấy giờ là quan Tư đồ Nguyễn Nghiễm (một trong ba chức quan cao nhất trong triều) tự tay gài bông hoa vàng lên mũ cho con. Người đương thời truyền tụng như một câu chuyện đẹp và hiếm hoi ở đời. Ngày nay, vào thăm nhà Thái học Văn Miếu Hà Nội vẫn còn gặp lại những di vật của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm. Đó là bút tích bức hoành phi “Cổ kim nhật nguyệt” do tự tay ông viết, là quả chuông Bích Ung do ông hưng công việc đúc chuông. Và sân bái đường vẫn còn hai cây đại cổ kính, mà ngày xưa do tự tay ông trồng trong một lần ghé thăm Văn Miếu. Và điều lớn lao nhất mà Nguyễn Nghiễm để lại cho lịch sử dân tộc là đã sinh ra thi hào Nguyễn Du – tác giả của kiệt tác Truyện Kiều bất hủ.
Tại nhà thờ họ Nguyễn ở xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc có tấm bia Tân san gia huấn bi, trên khắc bài văn bia do Phạm Vĩ Khiêm soạn năm 1767, khắc rõ 10 điều gia huấn, khuyên con cháu: Giữ lòng ngay thẳng, chăm chỉ học hành, hiếu thuận nhân từ, ăn ở kính nhường, vợ chồng hoà thuận, cung kính đôn hậu, bạn bè tin cậy, hoà mục với láng giềng, phụng dưỡng cha mẹ, chăm chỉ nghề nghiệp.
Nhà thờ họ Vũ, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có tấm bia Miễn tử tôn cần học thi, tạc năm 1660, khắc bài thơ Đường luật và đôi câu đối khuyên con cháu cần cù học hành để mang lại tên tuổi vẻ vang và lập thân. Bài thơ khuyên con cháu từ tấm bé phải biết điều đó và gắng học hành, giữ nghiệp tổ tiên cày bừa trên ruộng sách, sau này được hiển vinh nơi khoa giáp rồi ra giúp vua giúp nước.
Nhà thờ họ Vũ, xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có tấm bia Tu cấu đường châm do Tiến sĩ Vũ Đăng Long soạn năm 1675, khắc bài châm nói về việc tu dưỡng lòng trung tín, dốc sức học hành.
Một võ quan cao cấp dưới triều Lê Cảnh Hưng là Nguyễn Sỹ Trung vào năm 1766 cũng tự tay soạn văn bia Từ huấn bảo minh khắc một bài văn vần 50 câu căn dặn con cháu phải giữ gìn đạo đức, cần kiệm, trung hiếu, không rượu chè bê tha, không làm điều phi nghĩa, để giữ lấy truyền thống của tổ tiên, đặt tại nhà thờ họ Nguyễn của mình ở xã Đặng Xá huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Đặc biệt nhất, phải kể đến bia Vũ Vu thiển thuyết khắc hẳn cả một cuốn sách của Ninh Ngạn, mà người chép sách vào đá rồi thuê thợ khắc là Ninh Tốn, con trai của Ninh Ngạn. Ninh Ngạn (1715 – 1781) là người có công khai hoang lập ấp ở xã Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Ông đi thi Hội không đỗ, bèn đem sở học viết thành bộ sách Vũ Vu thiển thuyết, chú tâm dạy học, đem điều nghĩa cổ vũ Văn hội, đặt lệ nuôi các bậc kỳ lão, đề xuất việc khẩn hoang, vạch ra cương giới ruộng đồng, mở chợ xây cầu gây dựng phúc ấm cho hương thôn. Ninh Ngạn là một tấm gương về hiếu đễ. Khi anh trai mất, ông đứng ra nuôi dạy các em nên người, thờ cha mẹ một lòng hiếu kính. Vợ mất sớm, ông nuôi dạy con chu toàn.
Tác phẩm Vũ Vu thiển thuyết của Ninh Ngạn được con trai là Ninh Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), tức là ngay sau khi cha mất, hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Văn bia gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông.
Bài văn có đoạn: “Tốn tôi vâng lời di huấn của cha, thẹn nỗi chưa làm theo được hết, bèn tự tay chép sách của Người vào đá rồi thuê thợ khắc để chỉ bảo cho đám con cháu muốn dốc lòng cầu đạo”..
Phần 2 khắc toàn văn bộ sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách. Trong đó có các chương 1 và 2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người; chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32 bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống – chết, vinh – nhục ở đời..
Những thăng trầm của lịch sử đã trôi theo tháng năm. Đã sang thế kỷ 21, một thiên niên kỷ mới với bao thay đổi về quan niệm sống và hành xử, tác động không nhỏ tới mỗi gia đình và dòng họ, song những lời vàng trên đá mà người xưa trao lại vẫn rạng ngời đạo lý Việt Nam. Cùng với 51 quyển sách gia huấn hiện đang tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và rất nhiều bản gia huấn đang được các gia đình, gia tộc gìn giữ sẽ góp phần vào việc tìm hiểu nhiều mặt về giáo dục trong gia đình truyền thống ở Việt Nam thời trước.
Ngày nay, tiếp thu chắt lọc những nét đẹp nhân văn của những đạo lý mà tổ tiên đã dạy, xây nền đạo đức mới trên nền nhân đức của cha ông mãi mãi là một việc đáng suy ngẫm và cần thiết của gia đình và xã hội Việt Nam hôm nay và mãi về sau.
Tư liệu tham khảo: Tạp chí Hán Nôm, Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (1993)