- Đang online: 3
- Hôm qua: 682
- Tuần nay: 13241
- Tổng truy cập: 3,272,443
TUYỂN THƠ CỦA MỘT DÒNG HỌ
- 1541 lượt xem
Đó là một tuyển thơ đặc sắc, chưa từng xuất hiện ở xứ sở giàu truyền thống thi ca như nước ta. Lại thật đồ sộ: ngót 900 trang của 28 tác giả. Những người góp mặt trong tuyển tập đều có quan hệ ruột rà, là ông cháu, chú bác, anh em…, thuộc cùng một dòng họ duy nhất: họ Vương. Có điều, không phải với quy mô cả nước mà chỉ thu lại trong một làng nhỏ ở Xứ Nghệ – làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương. “Làng tôi nhỏ, lối vào làng cũng nhỏ/ Ô tô về phải dừng lại đường quan” – nhà thơ Vương Trọng, một trong những gương mặt thơ sáng danh nhất góp tiếng nói trong tuyển thơ này không kìm được nỗi xúc động trào dâng để viết như vậy. Lại ở trong bài Lời dặn, nghĩa là một lời từ biệt viết trước, “khi mắt tôi khép lại cái nhìn”, do vậy gợi nên rất nhiều ý tưởng và cảm xúc thật thiêng liêng: “Hãy đưa tôi về nơi sinh nở”. Để: “Thi hài tôi sẽ trở lại với làng/ Trên sức lực bạn bè, xóm mạc/ Những bàn tay lam nham cua cắp/ Những bàn chân tập tễnh bước gai đâm”. Đáng nói nhất là nơi ấy có: “Núi Quỳ Sơn sẵn dành chỗ tôi nằm/ Hoa ấm lửa, đất nồng hơi than cháy…”. Khi trở về đất Mẹ, được nằm xuống một nơi thân thương, ấp áp như thế thì còn ao ước nào hơn! Chắc không ai nghĩ nhà thơ giả định cho “nên thơ”. Anh thành thực và nghiêm chỉnh lắm đấy! Chẳng phải ai đó đã từng nói rất thấm thía rằng, những ý nghĩ, cho dầu ở đây là giả định, trước khi giã từ cuộc đời mà con người luôn yêu quý, gắn bó thường là thật nhất, và cũng lắng nhất đấy sao!
Dòng họ này, riêng về truyền thống tinh thần, kể cũng thật đáng tự hào. Người xưa bảo, quan trọng đâu phải là núi cao hay sông sâu, vấn đề là có tiên, rồng trú ngụ hay không. Có tiên ở, có rồng ẩn thì lập tức nơi ấy trở thành núi thiêng, sông thiêng. Ở đây là xứ thiêng. Tôi nhớ tới một câu đối chữ Hán khắc sau nhà thờ Đại Tôn họ Vương của làng: “Văn mạch tố tùng sơn tự bắc – Phúc nguyên trường dẫn thuỷ chi đông” (Tạm dịch: Mạch văn chảy xuôi từ núi bắc – Nguồn phúc dài đến nước phương đông). Tôi còn nhớ tới Hội Văn nghệ Cứu quốc Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã từng đóng tại làng Đông Bích trong gần hai năm trời (1949 – 1950). Nguồn mạch văn chương ngàn đời cùng bóng hình các nhà thơ danh tiếng như Xuân Diệu, Chế lan Viên, Lưu Trọng Lư, Hoàng Trung Thông, Thanh Tịnh… và các nhà phê bình chói sáng của nền văn chương nước nhà như Hải Triều, Hoài Thanh… chắc chắn vẫn còn trôi chảy và ẩn hiện đâu đây! Cho nên chẳng lấy làm lạ nếu được biết những cây bút nổi danh nhất của dòng họ Vương của làng lại thường không mấy khi được học hành, đào tạo bài bản về nghề văn. Như Vương Trọng, Vương Duyệt, Vương Đình Huấn tức Thạch Quỳ… Họ đều tốt nghiệp đại học ngành toán cả. Vương Cường thì là tiến sỹ kinh tế học. Còn Vương Đình Trâm lại là cán bộ kỹ thuật nhiều năm của lâm trường. Dường như chỉ có Vương Long là lĩnh bằng đại học sư phạm văn, nhưng lại dành không ít năm tháng trực tiếp tham gia sản xuất ở quê nhà. Tôi nhận ra, như ở trường hợp Thạch Quỳ, những dấu ấn vô thức của kiểu tư duy luận lý: “Những đau khổ không làm tôi gục xuống/ Tôi lần tìm đầu mối các nguyên nhân” (Bài Tôi). Nhưng thường thì trái tim nhạy cảm trong anh hoà với trí tưởng tượng khoáng đạt bay bổng tạo nên những vần thơ như khắc chạm vào tâm tưởng của người đọc, như: “Liếu điếu chim về trên ngọn xoan/ Nắng rơi lá rụng trái xoan vàng/ Tôi từ phố chợ về quê cũ/ Nhặt tuổi thơ tôi rớt ở làng” (Bài Chiều ở quê). Cảm nhận tinh nhạy và nổi rõ ấy có đủ điều kiện nhập thẳng vào kho tàng thi ca giàu ấn tượng viết về thôn quê của xứ ta, xưa cũng như nay.
Có những cây bút tài danh như vậy, nên, như một lẽ tự nhiên, rất nhiều người làm thơ trong dòng họ Vương đã không ngại ngần lên tiếng bàn luận về nghề viết. Hình thái và ý nghĩ rất khác nhau, nhưng dường như quan niệm về thơ của họ đều gặp nhau ở chỗ: rất nghiêm cẩn và rất đáng nhớ. Thạch Quỳ phát biểu về thơ như một tuyên ngôn: “Thơ không triết luận sự sống mà mọc lên cùng sự sống… Muốn hay không thì thơ vẫn là phương tiện đồng hoá con người với sự sống”. Rồi: “Sự sống bí ẩn thế nào, kỳ diệu thế nào thì thơ bí ẩn thế ấy, kỳ diệu thế ấy… Thơ tạo ra thế giới mang vẻ đẹp hướng tới của khát vọng sống. Có thể nói khát vọng còn thì thơ còn, sự sống còn thì thơ tồn tại…”. Dồn dập. Cuồn trào. Riêng tây. Cứ như lúc anh làm thơ có cảm hứng vậy. Lại thật đích đáng. Không khác lắm so với một nhà lý luận thi ca chính hiệu. Được biết, đây là những câu nói rắn đanh rút từ tham luận của anh tại Festival – Thơ tổ chức tại Huế vào năm 2004. Đại biểu và cử toạ toàn là những người không chỉ rất ham thích thơ mà còn rất am tường về thơ. Nhưng Thạch Quỳ, như bản tính trời sinh, nào có “ngán”. Có khi lại kích thích thêm lòng tự mãn vốn không hề thiếu ở anh. Ô hay, tôi chỉ nói lên những đường hướng dẫn dắt sáng tạo của bản thân trên thực tế. Có thể không hoàn toàn giống với sách vở đông tây kim cổ. Vậy thì đã sao? Lý luận sống động lẽ nào tách rời thực tiễn văn chương muôn màu!
Thi sỹ họ Vương tên Trọng xem ra điềm tĩnh và chín chắn hơn khi tìm đến cách diễn đạt bằng chính hình thức thơ vốn là sở trường của anh. Trong bài Nghĩ về thơ, anh thẳng thắn nêu ra câu hỏi mang tính “siêu hình”: Vậy thơ là gì? Đặt ra câu hỏi về bản thể của thơ đã “gớm”. Trả lời lời cho thấu lý còn “gớm” hơn. Vì ngàn đời nay người đời đã không ít lần giải đáp rồi. Toàn những đầu óc thông thái cả, đâu có vừa. Chẳng hạn: “Là rượu, không phải cơm, ai đó nói về thơ”. Bảo thơ là thứ tinh tuý như “rượu” được chưng cất lên từ “cơm”. Nên từ vị, đến hương, rồi chất của thơ mới thế. Tưởng như không còn chỗ cho sự cật vấn. Nhưng Vương Trọng lại nghĩ khác, muốn lật lại vấn đề, cho nhận thức được thông tỏ hơn: “Muốn là rượu phải có gạo, ngô… và men cây, men lá/ Không có rượu cất lên từ nước lã/ Chẳng có thứ thơ nào từ trống rỗng nhà thơ…”. Anh hoàn toàn có lý đấy chứ! Không ít người xưa nay chỉ nhìn thấy kết quả sau cùng mà ít thấy cả quá trình lao động thi ca vất vả, gắn với chất liệu bên trong và bên ngoài khác nhau của thơ. Chỉ với một quan niệm bao quát như vậy mới mong tạo ra những giá trị mới để có thể đàng hoàng sánh ngang với những “đỉnh cao quá khứ mãi còn sừng sững phía tương lai”. Theo Vương Trọng, thử thách lớn nhất trong thơ là ở độ “nông sâu” của “ý tứ”, qua sự “trong đục” của ngôn từ. Rồi những vần thơ hay với anh nổi lên thật rõ, như “dòng suối sâu, nước càng trong càng thấy rõ độ sâu”. Hoàn toàn khác với thứ thơ như “dòng suối cạn muốn doạ người rằng sâu chỉ có cách khuấy ngầu làn nước đục”. Sự thể vậy là đã rõ! Ai cự lại nổi.
Khiêm nhường và nhỏ nhẹ, một tác giả khác – Vương Đình Trâm cũng từng ngỏ lời tâm tình Với nàng thơ: “Em hiện hữu dịu dàng trước mặt/ Em mơ hồ sương khói xa xôi/ Em dân dã như linh hồn của đất/ Em cao sang tận chín tầng trời”. Cho nên thật dễ hiểu khi: “Mỗi câu nói cũng trở thành điệu hát/ Hương thì đậm trong chén trà vừa rót/ Gió thì thơm trên đĩa quả mới bày”. Và rồi, như một quy luật hiển nhiên: “Từ cát bụi anh lại về cát bụi/ Riêng mình em vĩnh viễn giữa đất này”. Không mấy người nghĩ đó là những ý tưởng độc sáng về thơ. Tôi chỉ muốn nói, phải trải nghề và phải vững tin vào nghề lắm mới có can đảm nói to lên những ý nghĩ từng day dứt đến vậy về thi ca. Và, khi đã dám bàn và quyết bàn về thơ thì tự nhiên ý thức về việc làm thơ trở nên thường trực và tự giác hơn nhiều. Đó là một trong những cơ sở chắc chắn làm nên những vần thơ có bản sắc và có giá trị.
Giờ thì xin dừng lại ở điểm đang nói nhất của tập sách dầy dặn này. Như thường thấy, “tuyển thơ” bao giờ cũng đi cùng với “tuyển lựa” những vần thơ tinh tuý và tiểu biểu nhất. Ở đây là của mỗi người cầm bút thuộc về một dòng họ. Sức nặng của một tuyển thơ hay văn chủ yếu nằm ở đây. Trong tình cảnh thi ca đang rơi vào nguy cơ nhàm chán như bấy lâu thì có thế nói đấy mới là lý do tồn tại đích thực của một tuyện tập. Chỉ có vậy mới mong làm giàu có thêm thi ca, từ đó làm gia tăng lòng yêu thích thi ca – cái thiếu nhất giữa lúc này. Vương Cường đọng lại ở bài Những điều khó nói: “Dễ gì nói được cùng em/ cái trong của nắng, cái mềm của mây/ cái xa của tháng, của ngày/ hoa bay sao lại nở dày đêm đêm”. Khó nói cũng là một cách nói đấy mà! Đọc lần đầu dễ bảo khổ thơ như rơi vào diễn giải lan man, có bề rộng mà ít chiều sâu. Nhưng sao ta vẫn cứ thích ngâm nga làm vậy. Ngay cả khổ sau này nữa: “Dễ gì nói được cùng em/ cái im của bão, cái bền của tơ/ cái cao không thấy bao giờ/ trẻ như sóng vỗ vào bờ thời gian”. Vẫn mạch suy tưởng ấy thôi. Có điều, nếu ngẫm nghĩ kỹ, sẽ thấy câu thơ xem ra không chủ tâm nói lý, mà hướng tới việc diễn tình. Nên mới dễ hút người đọc vào. Khó dứt ra cho nổi. Câu kết của bài thơ như có ý giải thích nỗi băn khoăn chính đáng ấy của người thưởng ngoạn, nghĩa là giải được cái mã ngầm của bài thơ cũng là cái lẽ chung của thi ca: “Tưởng như anh biết cả rồi/ mà sao khó nói nên lời với em”. Ngỡ người đọc “biết cả” mà sao vẫn “khó nói”? Nên mới cần đến “sự nói” của nhà thơ. Tôi để ý tới thời điểm tác giả làm bài thơ này: năm 1977. Quá sớm! So với tuổi tác của anh. Vậy nên, tôi hiểu vì sao Vương Cường lại là tác giả của bài thơ ám ảnh không kém có tên Thơ tặng người xưa: “Người xưa, người của tôi ơi/ có bao nhiêu nước đã trôi qua cầu”. Tưởng câu sau chẳng hề ăn nhập gì với câu trước. Về mặt logic ấy. Nhưng không, nói nước “trôi” theo lẽ tự nhiên là để nhằm nói tình người “không trôi” theo lẽ nhân tình đấy! Câu thơ sau hay bởi lẽ khác – ở sức gợi: “Chỉ vì người chạm vào tôi/ nên sông cứ rộng nên đời cứ xanh”. Còn câu này lại hay ở sự hoà quyện giữa “tôi” và “người”: “Tôi đi ấm lạnh trong đời/ nỗi buồn đầm đậm, nỗi vui mờ mờ”. Bạn đọc thường tâm đắc với những ý thơ gợi tưởng như vậy.
Vương Duyệt cũng có cái đáng để khoe trong bài Người đánh bẫy dấu chân. Có thể câu thơ này chưa thật mới, cả ý lẫn lời: “Dấu chân em đặt xuống/ Ở mãi với thời gian”. Nhưng tôi dám cả quyết rằng câu sau thì khác, phần nào hay ở ý và đẹp ở lời: “Những dấu chân hoá đá/ Để lòng anh mềm lại, dịu êm”. Sự tương phản giữa “đá” cứng và “lòng” mềm đến khá là đường đột, vì vậy dễ ám vào người đọc. Vương Long trong Với hoa quỳnh xem ra ít chú tâm vào từng chi tiết như Vương Duyệt. “Thức với hoa quỳnh nở”, anh liên tưởng ngay tới sự sống linh thiêng, mỏng manh và yếu ớt mang sức bao quát: “Từng non tơ động cựa/ Cánh xoè ra thơ ngây/ Như không là hoa nữa/ Một linh hồn trên tay”. Sức lay động của hoa vì thế như lan toả khắp đất trời: “Như không là hương nữa/ Cả trời đêm dâng say”. Một tâm hồn như vậy thì làm sao không dâng trào nỗi thương cảm da diết khi một lần nào đó trong đời phải Chia xa người yêu: “Thương mai mốt rồi mình em đơn độc/ Căn phòng rộng như mùa thu dằng dặc/ Như mùa đông da diết giọt mưa buồn”. Câu thơ sau cùng chảy một mạch cảm xúc ấy: “Anh đi nhé. Một trời thu thương nhớ/ Cứ mênh mông nghiêng xuống phía em về”. Nếu thơ hay là ở sự đồng điệu giữa người viết và người đọc thì những câu thơ ấy chắc sẽ tìm được sự sẻ chia của nhiều người.
Tôi muốn dừng lâu hơn ở nhà thơ sáng danh Thạch Quỳ. Ngay từ khi mới đọc những vần thơ “nhập hồn” trong dạng vẻ như “lồng lộn”, như “phá phách” của anh, tôi đã không thể quên được câu thơ này: “Tôi một đời yêu bóng của tình yêu” (Bài Lời cuối tập). Có cái gì chua chát, dai dẳng đâu đó ở bên trong. Thế nhưng càng có dịp đi sâu vào thế giới thi ca đậm đặc chất trữ tình của anh, tôi lại thêm yêu những vần thơ dạng khác mà bài Trái tim là một dẫn dụ điển hình: “Cứ lặng lẽ trong ngực người đập khẽ/ Hết đêm sâu không hết trái tim mình”. Có lẽ ít ai tự “lột trần” hồn mình, với cả mảng sáng và mảng tối, rồi đem phơi ra giữa thanh thiên bạch nhất như anh: “Tôi đã yêu và tự làm rối quẫn/ nhưng trái tim không nhầm lẫn bao giờ/ Trái tim nói những điều hệ trọng/ cả những điều ta tưởng rất vu vơ”. Nghĩ kỹ, lại thấy anh chỉ muốn sống thành thực và hết mình. Đời người, phận người thế nào thì thơ thế nấy. Nên ta có thể sẵn lòng bao dung để chấp nhận những triết lý này của anh: “Rồi trí óc có ngày mệt mỏi/ Ý chí ta có thể tận cùng/ Vẫn nhỏ nhoi trái tim trong ngực/ Trước cuộc đời đích thực mãi ngân rung”. Cả triết lý Về sự vơi cạn phát sáng này nữa: “Nếu có sự vơi cạn/ Tôi yêu/ Sự vơi cạn của dầu/ của than/ của củi/ Sự vơi cạn phát sáng/ Giữa cạn vơi âm ỉ của đêm thâu”. Thơ anh thường đi giữa bao nghịch cảnh, nghịch lý, dựa vào những phản đề khác nhau ở đời, để cuối cùng phát lộ ra nhiều điều sâu xa cần nói mà chưa nói bởi khó nói. Lại phải nói bằng thơ kia! Không dễ. Nhưng anh dám chấp nhận thách thức. Sức ba động của thơ Thạch Quỳ ở đó mà lan toả ra chăng? Có điều, cuộc đời bình dị thường ngày lại dạy anh một dạng triết lý khác. Đó là thứ minh triết sáng trong, vĩnh hằng của của cỏ: “Tháng năm lần lữa đắp bồi/ Lặng im để cỏ nói lời ngàn năm” (Bài Lời nghìn năm). Anh đã hái được không ít những vần thơ hay về cỏ là bởi vậy. Trong những tình huống thi ca khác nhau, cố nhiên là thế. Đây là cỏ trong tâm trạng nôn nao Đợi em ngày giáp tết: “Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về”. Còn đây lại là cỏ trong nỗi quặn đau ở Nghĩa trang chiều: “Cỏ xanh gió thổi ngang ngang mồ bạn”. Tôi thầm hiểu được cái lẽ đời thấm trong câu thơ này của Thạch Quỳ: “Chiêm bao thấy mộ mình không mọc cỏ/ Riêng điều này là nỗi sợ của tôi” (Bài Bên lề lá cỏ Uýt Man). Cái lẽ đời ấy phải chăng ẩn sâu ở câu thơ này: “Đất giữ gìn cho cỏ/ Cỏ giữ gìn cho tôi (Cỏ dại). Để rồi, một lần đến thăm xứ xở xa lạ Xamacan, trong sự im lặng đến vô cùng tận của cát, của đá…, anh vẫn kịp nhận ra sự im lặng của thứ cỏ thân thuộc. Tôi yêu thơ Thạch Quỳ trong nhiều dạng thức, nhưng bao giờ cũng lắng lại ở sự sống gần gũi, tràn trề. Hoàn toàn nhất quán với quan niệm của anh về thi ca…
Có dịp đọc những bài thơ tiêu biểu nhất của các tác giả hiện diện trong Tuyển thơ họ Vương, ta dễ nhận thấy ý thức tiếp nối truyền thống tinh thần tốt đẹp của dòng họ. Cụ Vương Đình Uyển (1877 – 1960) để lại câu thơ chủ tâm nói với người đời nhưng cũng muốn qua đó nhắc nhở con cháu mình: “Trần ai ai có biết hay không/ Làm bạn nhà Vương chẳng bận lòng…”. Vâng, xin hãy vô tư để đến với tập thơ này của dòng họ Vương, rồi bạn đọc sẽ được tận hưởng nỗi an lành, thư thái vì thực sự được sống giữa lớp lớp những vần thơ chân tình, ấm áp và lắng sâu trong nỗi ám ảnh thật khó nguôi phai…
Đà Lạt, 4/2012
Viết bình luận
Tin liên quan
- LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG DÒNG HỌ TÂY KỲ VƯƠNG NGUYỄN KÍNH
- LỄ CÚNG GIỖ THỦY TỔ HỒNG PHÚC ĐẠI VƯƠNG MẠC HIỂN TÍCH
- ĐẠI DIỆN HỘI ĐỒNG MẠC TỘC HẢI PHÒNG DỰ LỄ KỶ NIỆM 10 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (2002 – 2012), CỦA HỘI ĐỒNG TRỊNH TỘC HẢI PHÒNG
- HỌ VŨ VIỆT NAM, HỌ VŨ TRÀ PHƯƠNG VÀ VIỆC XÂY NHÀ THỜ HỌ HIỆN NAY
- Tặng bằng khen cho gia tộc họ Đặng hiến tờ lệnh quý
- Nam Định: Vong hồn hiện hình trên bia mộ của dòng họ Đinh Quang
- Thông báo LỄ RA MẮT QUỸ TẤM LÒNG VÀNG HỌ PHẠM VIỆT NAM
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang