- Đang online: 2
- Hôm qua: 1127
- Tuần nay: 19121
- Tổng truy cập: 3,370,541
THỦ LĨNH HOÀNG (MẠC) CÔNG CHẤTĐƯỢC TÔN LÀM CHÚA LỚN CÁC DÂN TỘC TÂY BĂC 756
- 263 lượt xem
THỦ LĨNH HOÀNG (MẠC) CÔNG CHẤT
ĐƯỢC TÔN LÀM CHÚA LỚN CÁC DÂN TÔC
GS .TSKH. Phan Đăng Nhật
“Hoàng Công Chất không những lãnh đạo nhân dân tiếp tục đấu tranh chống chế độ phong kiến mà còn kiên quyết đánh lùi các cuộc xâm lấn, cướp bóc của nước ngoài, làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biên cương phía Tây của Tổ quốc. Phong trào nông dân từ chỗ đánh đổ trật tự phong kiến đã vươn lên đảm đương lấy nhiệm vụ bảo vệ đất nước, xây dựng cuộc sống cho nhân dân.” (Lịch sử Việt Nam-Viện KHXH Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1971.)
|
MỞ ĐẦU
1. Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu Trung Quốc như Trần Giai Vinh, Dương Liễm, Ngưu Quân Khải thì Hoàng Công chất và con trai Ngài-Hoàng Công Toản là hậu duệ của các hoàng đế nhà Mạc[1].
2.Thủ lĩnh Hoàng Công Chất, gốc Mạc, quê chính ở Hoàng Xá/Nguyên xá, huyện Vũ Thư, Thái Bình, chiến đấu ròng rã 30 năm (1739-1769), với hai giai đoạn:
+Sơn Nam: 1739-1751
+Hưng Hóa/Tây Bắc: 1751 -1769.
Ba mươi năm trời, Ngài là một anh hùng chống phong kiến Lê-Trịnh, mà “phong kiến Lê -Trịnh sợ nhất” (cùng với Nguyễn Hữu Cầu); về cơ bản đời Ngài chỉ có chiến thằng , không chiến bại; có những chiến thắng oanh liệt như giết được Thống lãnh, tướng Hoàng Công Kỳ; đánh liên tiếp 7 trận lớn ở Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa (10-1768); đánh chiếm 10 châu ở Hưng Hóa (1768),…
3. Bài này chủ yếu chỉ bàn về giai đoạn ở Hưng Hóa/Tây Bắc. Ở đây , Ngài được các thủ lĩnh các dân tộc và nhân dân tôn làm chúa lớn (chẩu luông); làm chủ một vùng rộng lớn thuộc lưu vực Sông Mã, Sông Đà, Sông Thao ; mặc dầu Ngài bị Lê-Trịnh luôn rêu rao là “giặc cỏ”, lại là người Kinh.
Câu hỏi đặt ra là nhờ đâu Hoàng Công Chất đạt được vinh quang đó và ý nghĩa, ảnh hưởng của sự kiện này, trước hết đối với lịch sử các dân tộc Tây Bắc.
4. Ngoài mở đầu và kết luận, bài có mấy phần chính như sau:
-Tổ chức cơ bản của xã hội Thái và con đường hình thành châu mường và liên minh các châu mường kiểu tiền nhà nước với người đứng đầu là Chẩu luông/ Chúa lớn
-Tình hình thế kỷ 18, sự nguy cấp đối với Tây Bắc, thủ lĩnh HCC, đã lãnh đạo nhân dân cứu vãn tình thế và được tôn là chẩu luông /chúa lớn.
-Nhân dân thờ phụng thủ lĩnh Hoàng Công Chất-đòi đời tri ân Ngài.
*
TRIỂN KHAI
I. Tổ chức cơ bản của xã hội Thái và con đường liên minh các châu mường hình thành xã hội kiểu tiền Nhà nước “mường luông” với người đứng đầu là “chẩu mường luông”/ “chẩu luông”.
2.Hình thức tổ chức cơ bản của xã hội Thái
Hình thức tổ chức cơ bản của xã hội Thái là bản và mường .
Bản là một công xã nông thôn, gồm những gia đình hạt nhân theo quan hệ huyết thống hay láng giềng (là chủ đạo) và được vận hành theo một chế độ dân chủ công xã dựa trên chế độ già làng, đứng đầu là “phò bản” (bố làng) với một hội đồng già làng. Các bản tập hợp thành một “Mường” (trong một thung lũng) dưới sự thống trị của một dòng họ quý tộc, đứng đầu là một tù trưởng “Chẩu mường” (chủ mường) được quyền thế tập dựa trên hội đồng già làng (Thầu ké háng mương). Bản là ha tầng cơ sở, còn mường là hình thái cấu trúc bậc trên .
Mường Thái có bốn cấp nnư sau: Mường lộng — Mường phìa — Châu mường và Mường luông
3. Mường lộng (hay mường quen): Đây là cấp nhỏ nhất, gọi tắt là lộng, quen, nằm gọn trong một thung lũng lòng chảo, có thể tương đương với một bản lớn có đến 50 – 60 nóc nhà trở lên, hoặc cũng có thể có hai, ba bản nhỏ hơn hợp lại. Đứng đầu đơn vị lộng, quen là một đàn ông thuộc dòng dõi quý tộc gọi là tạo (tạo lộng hay tạo quen).
4. Mường phìa: cấp trên của mường lộng (quen). Trong tiếng Thái ở vùng Đông Nam Á có nơi không phát âm là phía mà là phaya. Người đứng đầu đon vị mường phìa là phìa (chẩu phìa). Đây là chức danh riêng cho một dòng quý tộc cha truyền con nối hoặc anh em.
5. Châu mường: Đơn vị châu mường có người đứng đầu là chẩu (chẩu mường), cũng thuộc dòng quý tộc cha truyền con nối hoặc anh em. Ở đây, chữ chẩu đồng nghĩa với chữ tạo, phía trong biểu hiện thủ lĩnh mường.
Tạo, Chẩu mường (hay Phìa) có thể vốn là dòng dõi của những thủ lĩnh cầm đầu bộ lạc. Những người này đã có công khai phá đất đai hoặc chiến thắng trong các cuộc chiếm đất mở mường nên được các thành viên trong cộng đồng suy tôn làm người đại diện. Họ được tập thể trả công và giao quyền phân chia ruộng của mường cho dân, và sử dụng các tài sản do người nhận ruộng phải nộp (như hình thức địa tô) dành cho việc chung. Sau này, những con cháu họ, cha truyền con nối, được thừa hưởng quyền mà tập thể giành cho những người thủ lĩnh đầu tiên ấy. [2]
2. Vai trò của chẩu mường luông/ chẩu luông (chúa lớn)
Trong số các chẩu mường (thời nhiều nhất là 16) xét công lao và uy tín, một người được toàn thể thần phục, tôn làm chẩu mường luông/chẩu luông, mường do ông quản lý trực tiếp trở thành mường luông và là mường trung tâm của toàn thể lãnh thổ. Chẩu luông vừa quản lý mường của mình vừa coi sóc toàn thể 15 châu mường khác . Chẩu luông có uy quyền bao trùm nhưng không tham gia chỉ đạo các công viêc nội bộ của 15 châu mường khác. Cụ thể ông có những nhiệm vụ chính sau đây :
1.Góp phần cử chẩu mường mới.
Quy trình công việc diễn ra như sau:
“Khi đã già yếu chẩu mường giới thiệu người sẽ thay thế với “bô lão trong mường” (cũng có nghĩa giới thiệu với bản, mường) . Người được giới thiệu thường là con trai cả.
Bô lão trong mường có thể chấp nhận hoặc tiến cử người khác trong quý tộc để chẩu mường xem xét lại. Quyền quyết định cuối cùng vẫn là ở chẩu mường cha. Tiếp theo là việc cử người đến trình chẩu luông. Nếu chưa vừa lòng, chẩu luông chỉ có thể gợi ý để bô lão và chẩu mường cha cử lại. Nếu phía chẩu mường cha cứ quyết định người đó , thì buộc chẩu luông phải công nhận.
Sau khi chẩu luông chấp thuận, bô lão trong mường và chẩu mường cha sẽ cử một phán đoàn do viên “phóng xai” (một chức đối ngoại) dẫn đàu , đưa chẩu mường mới tới ra mắt và nộp lễ vật lên chẩu luông để tỏ ý tạ ơn.”[3]
2.Góp phần bãi miễn chẩu mường cũ.
Sau đây là quy trình được thực hiện ở trường hợp Cầm Mựt (Mường La)
“Ví dụ, có trường hợp “bô lão trong mường” đã bãi chức “chẩu mường” ở Mường La, đươc Quám tố mướng ghi: “Cầm Mựt (thời gian khoảng cuối thế kỷ 15 tương đương với đòi vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức- CT) lên làm “chẩu mường” nhưng đã tham lam sắc tửu bừa bãi, không thẳng thắn…bô lão không phục nên xin với “chẩu mường luông” bãi miễn” [4]
3.Phong chức cho các chẩu mường
Sử Thái có ghi lại trường hợp Hoàng Công Chất phong chức cho một số châu mường: “Hoàng Công chất thu cống nạp, điều binh khi chiến trận, cắt cử phong ấn, sắc cho các tù trưởng Thái. Sử thái ở Sơn La có chép. Ông phong cho phìa Cầm Ten làm chủ Mường Muổi (tức Thuận Châu); Cầm Phằn và Cầm Vang làm chủ Mường Mụa (tức Mai Sơn) ; Bun Xao, con Bun Dom làm chủ Mường La”[5]
“Tóm lại. quan hệ chung giữa các châu mường với mường luông, người Thái gọi là “ó suối ó hán” (có nghĩa là phải cống nạp và quy thuận). Những châu mường phải chịu cống nạp và quy thuận mường luông gọi là “mường vảy suối xin” (mường chịu sự lệ thuộc)
Quý tộc mường luông chỉ có thể đặt lệ cho các châu mường hàng năm phải cống vật phẩm; chứ không có quyền trực tiếp can thiệp mọi công việc thuộc phạm vi nội bộ của mỗi châu mường.
Quý tộc mường luông thực hiện việc chi phối các châu mường lệ thuộc bằng cái gọi là lam. Nội dung lam là việc cống nộp và thường trực giải quyết các công việc cần thiết của các châu mường. Quý tộc và chức dịch của các châu mường đến nộp cống và yết kiến mường luông gọi là khửn lam (lên lam), Người đứng đầu mường luông khi nhận chức đứng đầu châu mường thường phân công chi chức dịch làm lam (đại diện chẩu mường luông phụ trách các châu mường)”[6]
Việc thành lập mường luông đứng đầu là chẩu mường luông là nhu cầu phát triển của lịch sử các dân tộc, không riêng gì ở Tây Bắc. Các nhà sử học coi đó là quy luật phát triển từ thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc đến Nhà nước sơ khai. Đây là một con đường lâu dài , quanh co, có khi phải qua hàng thiên niên kỷ và thường bị đứt đoạn.
Để hình thành liên minh bộ lạc, phương thức phổ biến là chiến tranh. Chiến tranh là “bà đỡ của lịch sử”, đã phá vỡ tình trạng chia cắt riêng rẽ, đi đến thống nhất lãnh thổ, thống nhất lãnh đạo dưới một thủ lĩnh tài ba; nhằm thoát ra khỏi thời kỳ “dân chủ quân sự” chiến tranh liên miên, tiến dần từng bước đền thời kỳ tiền Nhà nước tạo nên sức mạnh to lớn và sự ổn định bền vững cho cộng đồng. Để thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng này cần có thủ lĩnh có tài năng quân sự, có uy tín cao, bao trùm.
Ngoài phương thức chiến tranh còn có các phương thức thần thuộc một cách hòa binh dựa trên quan hệ phân phong quyền lực trong và ngoài huyết thống, quan hệ hôn nhân,…
Ở Tây Bắc , theo Quam tố mướng ghi lại thì chỉ có mấy thời kỳ hợp nhất được các châu mường rồi sau đó tan vỡ. Thời Lò Lẹt-Ngu Hấu đã thiết lập được mường luông ở Mường Muổi, với chẩu luông là Chẩu Ngu Hấu. Khoảng thế kỷ 15, mường luông chuyển đến Mường Sang, gọi là Mường Sang luông với chẩu luông là Xa Khả Sam. Thế kỷ 17, mường luông chuyển đến Mường La với chẩu luông Bun Phanh.
Và đến thế kỷ 18 mường luông là Mường Thanh với chẩu luông Hoàng Công Chất. Trong phần tiếp theo chùng tôi sẽ trình bày kỹ vấn dề này.
II.Tình hình thế kỷ 18, sự nguy cấp đối với Tây Bắc, thủ lĩnh Hoàng Công Chất đã lãnh đạo nhân dân cứu vãn tình thế và được tôn là chẩu luông /chúa lớn.
1.Tình hình thế kỷ 18, sự nguy cấp đối với Tây Bắc
Từ đầu công nguyên, ở Tây Bắc đã có nhiều dân tộc Khơ Mú, Kháng, Mảng, La Ha, Xinh Mun…(thuộc nhóm tiếng Nam á) và một số tụ điểm của cư dân thuộc nhóm tiếng Tày-Thái (Thái, Lào, Lự) sinh sống. Thời đó họ sống với nhau rất bình đẳng. Truyền thuyết quả bầu của dân tộc Thái có nói đến “333 giống Thái, 555 giống Xá; Xá ở địa vị làm anh, Thái ở địa vị làm em”. Đồng thời, ta cũng thấy nói giữa các nhóm dân tộc thuộc ngôn ngữ khác nhau này, quan hệ chủ yếu là đoàn kết hữu nghị. Văn hóa Thái ảnh hưởng đến văn hóa của các dân tộc khác và ngược lại. Cuốn sách mo của người Lự ở vùng Mường Thanh ghi lại: “Đó là thời kỳ thanh bình, người Lự, người Thái, người Xá ăn chung ở đụng, suốt ngày nghe tiếng cười dưới đồng, thâu đêm nghe tiếng trai gái tỏ tình bên đồi, bên nương…Lự chài ven sông được cá, Thái gặt lúa dưới đồng, Xá giã gạo bên sân nhà bình bong” .
Thế nhưng, từ thế kỷ IX do sự thiên di của nhóm cư dân Tày – Thái (Lự, Thái, Lào, San…) ở vùng Xíp xoong pănna thuộc miền nam Trung Quốc xuống phía nam và vào vùng Tây Bắc đã tạo nên những cuộc tranh chấp đất đai quyết liệt kéo dài giữa nhóm cư dân bản địa Nam á với các nhóm Thái vừa mới thiên di đến. Rồi sau đó giữa các chúa Thái, chúa Lự lại xung đột với nhau để khẳng định quyền bá chủ trong khu vực; kết quả người Lự vào chiếm cứ cánh đồng Mường Thanh (Điện Biên) và phát triển thế lực lên đến Lai Châu, Mường Lay, Sìn Hồ. Để chiếm cứ lâu dài và chống lại các chúa Thái, tại Mường Thanh, chúa Lự cho xây thành Tam Vạn rộng 1/5 cánh đồng bên trong chứa được 3 vạn cối giã gạo bằng guồng nước và 3 vạn quân nên tiếng Thái gọi là “Sam Mứn”, còn người Thái thất thế phải theo đường Tuần Giáo rút về chiếm cứ từ vùng Mường Muổi (Thuận Châu) trở xuống. Trong thế kỷ XI đến thế kỷ XVII các chúa Thái ở Mường Sang (Mộc Châu) lại lục đục với các chúa Thái ở Mường Muổi (Thuận Châu) và các chúa Thái vùng Mường Lay (Lai Châu)… Cứ như thế vùng đất Tây Bắc cho đến thế kỷ XVIII hầu như không lúc nào được bình yên. Các vương triều phong kiến dưới xuôi (Triều Lý, Trần, Lê) đã nhiều lần mang quân lên đánh dẹp nhưng do đường xá xa xôi, địa hình hiểm trở nên không mấy hiệu quả.
Tình trạng loạn lạc ở Tây Bắc thời kỳ này, cộng với sự “nghiêng ngả” của các chúa Lự, lúc theo Việt chống Lào, lúc lại dựa vào Lào chống Việt, nhiều khi họ còn dung túng cho các chúa Thái bất mãn chống đối triều đình Trung ương dưới xuôi, mưu đồ cát cứ…Thực tế đó càng làm cho tình hình Tây Bắc thêm phức tạp “bản mường không yên vui”, dân tình đói khổ nên đã tạo cơ hội cho các đám giặc cỏ ở Lào và miền Nam Trung Quốc tràn sang cướp phá.
Khảng giữa thế kỷ XVIII, giữa lúc xung đột giữa các chúa Thái, chúa Lự ngày càng trở nên quyết liệt; triều đình phong kiến Trung ương lại suy yếu không còn đủ sức khống chế đến vùng Tây Bắc. Lũ giặc Pẻ (hay còn gọi là Phọng, Nhuồn) – một tộc người trong nhóm cư dân Tày – Thái ở Thượng Lào và miền Vân Nam Trung Quốc do tên tướng tự xưng là Phạ chẩu Tin Tòng tràn sang cướp phá miền biên giới giữa nước ta với Lào, sau đó kéo vào chiếm cứ đất Điện Biên; các chúa Lự không chống nổi phải chạy lên vùng Mường Lự (Bình Lư), Sìn Hồ, kết thúc 19 đời chúa Lự ngự trị ở đất Mường Thanh .
Đúng lúc giặc Phẻ đang tìm cách để kéo xuống cướp phá Sơn La, thì phìa Khuyên muốn dựa vào chúng để tranh giành ngôi Chúa của chú ruột mình là Cầm Tom ở Mường Muổi (Thuận Châu, Sơn La) nên y đã đưa đường cho bọn giặc tràn xuống cướp phá Sơn La gây bao cảnh tang tóc cho bản, mường…Trước sự cướp phá của giặc Phẻ, các chúa Thái phải cầu cứu triều đình phong kiến dưới xuôi mang quân lên đánh dẹp và phải vất vả lắm quân triều đình mới đuổi được chúng về Mường Thanh. Thế nhưng, tại đây giặc Phẻ lại ngày càng trở nên hung hãn, thả sức cướp phá, gay bao tội ác với bản mường; chúng thẳng tay tàn sát nhân dân, hãm hiếp đàn bà, con gái; man rợ hơn nữa, chúng còn bắt tất cả trẻ em trong vùng dồn vào một cánh đồng trũng, sau đó tháo nước vào giết hết, đến khi nước cạn cả cánh đồng phơi trắng đầu lâu và xương người. Vì thế đồng bào Thái ở Điện Biên gọi cánh đồng này là “Tòng Khao” nhằm ghi lại tội ác tày trời của lũ giặc Phẻ; hoặc như cánh đồng Hong Cúm (gọi nhầm là Hồng Cúm) mang tên đó là vì xưa nhân dân chạy giặc không kịp, vứt lại đó các “cúm” (là các hòm đan bằng tre hay mây đựng các vật báu) ; hoặc như khe Hong Ma Nao (tức khe chó rét) mang tên đó vì do đồng bào quá khiếp sợ giặc Phẻ phải chạy trong đêm, quá vội vớ nhầm chó tưởng là con địu đi, đến khe trên sờ đến địu mới biết là chó, bèn vứt bỏ lại đó, lũ chó bị rét chết hàng loạt .
Giặc dã đã làm cho dân chúng Mường Thanh phải phiêu dạt khắp nơi. Căm thù giặc Phẻ nhiều thủ lĩnh Thái và các dân tộc khác đã tập hợp lực lượng đánh lại, nhưng nhiều lần đều bị thất bại…Tất cả những người chống đối (cả gia đình, người thân của họ) đều bị chúng dùng cực hình tàn sát dã man, như cho voi dày, tẩm dầu vào đốt đến chết, đầu lâu bị mang ra bêu dưới chân thành Tam Vạn. Để tránh bị truy nã, một số người phải chạy sang Mường Puồn (nay là tỉnh Sầm Nưa của Lào) và họ đã gặp nghĩa quân của Hoàng Công Chất mới từ dưới xuôi kéo lên đang trú tại đó; tất cả đều tự nguyện theo Ông để đi đánh giặc Phẻ giải phóng quê hương.[7]
2. Nghĩa quân Hoàng Công Chất tiễu trừ giặc Phẻ, giải phóng các dân tộc Tây Bắc, các chẩu mường đã tôn Ngài làm chúa lớn/ chẩu luông, với Mường Thanh là mường luông, trung tâm.
Khi vào Tây Bắc, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã phối hợp với quân của thủ lĩnh người Thái là tướng Ngải, tướng Khanh (Cương mục có chép Chất liên kết với thủ lĩnh Thành) đánh giặc Phẻ cứu dân, bảo vệ miền biên giới tổ quốc.
Được sự ủng hộ của chúa Thái và các dân tộc giúp đỡ, nghĩa quân Hoàng Công Chất theo hai con đường từ Sông Mã tiến lên bao vây thành Tam Vạn. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Giặc Phẻ không sao chống cự được, cuối cùng phải bỏ thành Tam Vạn chạy đến Pú Vằng (Khu đồi Độc Lập) hiện nay. Đến đây, giặc Phẻ đã huy động toàn bộ lực lượng và dùng các loại vũ khí lợi hại nhất lúc bấy giờ như: súng to châm mồi thuốc súng, bắn đạn chì ghém tầm gần, nghĩa binh của Hoàng Công Chất bị thương vong rất nhiều, không sao tiến lên được. Trong lúc khó khăn, một số nghĩa binh của Hoàng Công Chất là người Lự, người Lào tham mưu và hai tướng Ngải, Khanh hiến kế cho một bộ phận người Lào, người Lự tới trước cửa thành của phạ chẩu Tin Tòng (tướng giặc Pẻ) xin hàng, chúng tin là thật nên nhận. Đêm đến, quân Hoàng Công Chất tiến đánh, được bộ phận trá hàng làm nội gián đánh ra nên quân của Công Chất thắng lớn, chém được Tin Tòng. Tàn quân giặc Phẻ phải ngược sông Nậm Nua và Nậm Rốm chạy sang Lào.
Đuổi được giặc Phẻ, Hoàng Công Chất một mặt ra sức củng cố lực lượng, tu sửa thành lũy để ổn định lâu dài ở Tây Bắc và chống lại triều đình phong kiến Lê-Trịnh; một mặt cũng hành binh lên phía Sìn Hồ, Bình Lư thu phục một số chúa Lự trước đây chạy trốn giặc Phẻ; đồng thời ông cũng tìm cách mở rộng thế lực xuống tận miền Tuần Giáo, Sơn La, phía Bắc Hòa Bình và sang đến miền “sông Thao nước đỏ”. Lúc đầu Hoàng Công Chất chọn thành Tam Vạn làm nơi đóng đại bản doanh. Sau đó, nhận thấy thành tuy rộng nhưng bố phòng sơ lược, không hợp với các loại vũ khí mới xuất hiện thời kỳ này như súng thần công, súng hỏa mai… lại không hợp với việc phòng thủ từ mặt Lào sang cũng như từ dưới xuôi đánh lên, ông đã quyết định cho xây thành ở Chiềng Lè (nay thường gọi là thành Bản Phủ, thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện biên).
Cho đến nay ở Điện Biên còn lưu truyền bài hát ca ngợi thành Bản Phủ:
“Thành to, thành đẹp
Thành vững đứng giữa cánh đồng
Giặc nào chẳng khiếp víaHào vây quanh thành sâu hơn mười sải
Mặt thành rộng hai chục sải tay
Ngựa phi, voi chạy,lính đứng gươm trần sáng loáng
Chúa cưỡi ngựa đứng trên mặt thành uy nghiêm
Nào ta hãy lấy tre về trồng cho khắp
Tre Mường Thanh chúa bảo đừng lấy
Hãy lấy tre có gai vàng như ngà
Tận miền xuôi về trồng mới tốt
Lấy hơn 40 ngàn khóm
Bao quanh thành, thành vững, chúa yên lòng”
Trong khoảng thời gian từ 1754-1769, từ Mường Thanh, Hoàng Công Chất mang quân đi đánh chiếm lại miền Thập Châu thuộc An Tây xưa đã bị bọn quan lại Trung Quốc, tỉnh Vân Nam cướp đoạt từ trước, tức các châu: Chiêu tấn (vùng Sìn Hồ hiện nay): châu Quỳnh Nhai; Châu Lai (Mường Lay, Mường Tè, Mường Xo tức Phong Thổ hiện nay). Luân Châu (một phần huyện Tuần Giáo hiện nay và khu vực Mường Mùn) thuộc tỉnh Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện Biên) và các đất Quảng Lãnh, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Toàn, Tuy Phụ, Khiếm Châu nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nghĩa quân còn liên kết với nghĩa quân của Lê Duy Mật lúc đó lập căn cứ ở núi Trình Quang, thuộc tỉnh Trấn Ninh. Sử sách cũ chép có nhiều lần hai toán nghĩa quân này liên kết với nhau khống chế suốt một dải miền thượng Thanh Hoá, Nghệ An đến miền Hưng Hoá tức miền Tây Bắc ngày nay, Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật lại uy hiếp triều đình bằng những cuộc tập kích vào vùng sông Thao, mạn Sơn Tây. Hoàng Công Chất chiếm toàn bộ 12 Châu Thái, tức miền Sơn La, Nghĩa Lộ và Bắc Hoà Bình. Các tù trưởng Thái như: Bun Phanh, Hà Công Ứng và tù trưởng Mường như Đinh Công Hồ chống lại nhưng đều bị thua.
Như vậy, Hoàng Công Chất đã hoàn toàn làm chủ Tây Bắc, các chúa đất người Mường, người Thái cả một dải sông Đà, sông Thao, sông Mã đều thuần phục Ngài và không chịu cống nạp về triều đình nữa. Mường Thanh trở thành khu trung tâm văn hoá, chính trị của đất Tây Bắc.[8]
Bản đồ khu vực Hoàng Công Chất làm chủ (khoanh vùng màu đỏ)
Nhà dân tộc học người Thái –Cầm Trọng- đã nhận định rất đúng: “Hoàng Công Chất có thể xưng chúa lớn và Mường Thanh trở thành trung tâm mười sáu châu mường được là nhờ trước hết ông đã có công chỉ huy nghĩa quân thực hiện nhiệm vụ quét giặc cỏ từ Vân Nam vào cướp phá, sau đó ông mới quay sang làm nhiệm vụ của cuộc khỏi nghĩa chống triều đình Lê-Trịnh mục nát” [9]
III. Bằng việc thờ phụng Hoàng Công Chất, nhân dân Tây Bắc đời đời tri ân Ngài.
Việc thờ cúng Hoàng Công Chất đã được thực hành từ lâu đời. và với hai phương thức nghi lễ.
1.Về thời gian
Người ta tìm thấy văn tự kể lại có đền thờ Hoàng Công Chất từ năm 1856 và sau đó , hẳn là đền thờ trước bị hư hỏng nhân dân xây dưng lại đền năm 1936. -1856
“Hình như người ta không tìm thấy một lời nào về một đền thờ hoặc một sự thờ phụng nào dâng cho Hoàng Công Chất trong các chương sách địa chí do các ông quan triều Nguyễn viết, vào thế kỷ XIX. Riêng Phạm Thận Duật chỉ ra một đền thờ tại Điện Biên dành cho thủ lĩnh khởi nghĩa Hoàng Công Chất, trong Hưng Hóa ký lược , ở chương các đền và chùa trong thành phủ Điên Biên, vào khi ông làm quan ở vùng này (1853-1856)” [10]
-và năm 1936
“Một đền/miếu nhỏ được xây dựng năm 1936” [11]
Viêc thờ Ngài được thực hiện theo hai phong tục, phong tục Thái và phong tục miền xuôi.
2.Các phương thức nghi lễ
2.1.Thờ cúng theo phong tục Thái-lễ xên mường
Lịch sử Thái có ghi lại xên mường xuất hiện từ thế kỷ 13, tiếp tục được tổ chức hàng năm cho đến năm 1956 thì đứt đoạn, đến năm 2012 bắt đầu tổ chức lại. Sau đây là sơ lược về lễ xên mường Mường Then.
Chúng ta sẽ thấy trong lễ lớn này , Hoàng Công Chất và công trạng của Ngài được cúng ở 2 điểm (in đậm) , cùng với Lạng Chượng, thủ lĩnh Thái có công lớn ở Tây Bắc.
“Lễ Xên mường đã có quy mô với : bốn chiềng , bảy Đông xên, được ghi vào sử sách và tổ chức một cách liên tục cho đến năm 1956, diễn ra trong năm ngày ở bốn chiềng như sau:
1. Chiềng Chăn là khu vực trung tâm, có bốn Đông xên như sau:
a.Đông xên Luông Vắng Van (Tà pố): thờ chung các thần linh trời đất, các tướng lĩnh toàn mường
b. Đông xên Pú Văng (dưới Tà pố): thờ đồng bào bào bị giặc giết tập thể, lưu giữ chiến công bắt sống được giặc Chẩu Phạ Tin Tòng (PĐN in đậm)
c. Đông xên Hua Pe (trên Bản Pe): thờ thủ lĩnh Khun Pe, con trai Lạng Chượng.
d. Đông xên Lạng Chượng: (Đồi A1): thờ Lạng Chượng, người đầu tiên lập nên Mường Thanh.
2. Chiềng Lé, Đông xên Chiềng Lé: thờ thủ lĩnh Hoàng Công Chất , tướng Ngải, tướng Khanh và các tướng lĩnh khác của Hoàng Công Chất.(PĐN in đậm)
3. Chiềng On (khu vực Noong Luống và Noong Hẹt). Đông xên Noong Hẹt: thờ các thần, các thủ lĩnh vùng Noong Luống và Noong Hẹt.
4. Chiềng xôm, (đông xên Xam Mứn -có thành Xam Mứn) : thờ thủ lĩnh Khun Mứn, cháu của Lạng Chượng”[12]
“Đông xên Chiềng Lé, tế Hoàng Công Chất, mổ một con bò đực to, một con dê, hai con gà.
Thời gian làm lễ, cùng ngày với các Đông xên khác, nhưng khác với các Đông xên khác là mổ vật hiến tế vào ban đêm, khoảng 3h sáng bắt đầu làm thủ tục tế lễ (làm sao tế xong trời còn tối để ruồi nhặng chưa kịp dậy đậu vào các mâm cỗ)
2.2.Thờ phụng theo nghi lễ vùng châu thổ sông Hồng
Việc thờ cúng thủ lĩnh Hoàng Công Chất chắc chắn gắn liền với các đền miếu mà chúng ta được biết là được xây dựng từ năm 1856 và 1936 (xem ở trên). Vậy việc thờ cúng này được thực hành từ nhiều thế kỷ trước. Nghi thức ở đây phỏng theo việc thờ thành hoàng làng/thần làng ở vùng xuôi:
“Ở châu thổ Sông Hồng, cư dân Việt, thực hành từ lâu đời sự thờ phụng thành hoàng làng. Họ thường là những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, mà sự đại diện được hình tượng hóa trong đình làng, hòa hợp với những tổ tiên dựng làng. Người anh hùng như thế, là tướng hoặc quan thuở xưa, được tôn thờ một cách lôgich trong làng gốc của họ.” [13]
Những thập niên gần đây lễ hội thờ thủ lĩnh Hoàng Công Chất ngày càng có quy mô hoành tráng hơn. Có nhà nghiên cứu có nhận xét là nghi thức ở đây không liên quan gì đến môi trường Thái:
“Việc thờ cúng này được chính quyền khuyến khích, hiện nay được làm mới mà đồng thời là chứng cớ của một đền thờ và nghi lễ không liên quan đến môi trường Thái, bất cứ về mặt nào, nhưng chắc chắn là đều phỏng theo sự thờ cúng thành hoàng các làng Việt, vùng châu thổ” [14]
Mặc dầu có vẻ không liên quan như vậy nhưng nhân dân các dân tộc Tây Bắc vẫn nhiệt tình tham dự (xem ảnh)
Tượng thờ Hoàng Công Chất và các tướng lĩnh. Ảnh Đặng Đỗ Oanh
Lễ hội thờ Hoàng Công Chất ở Điện Biên.Ảnh của P.De Failler
Vấn đề đặt ra
Có vấn đề được đặt là tại sao một người Kinh lại được thờ ở vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc và thờ theo nghi thức đồng bằng.
“Sự thờ cúng độc đáo gợi ra những tò mò : tại sao một người Việt lại được thờ phụng trên đất Thái theo phương thức của người châu thổ;
-sự tồn tại của đền thờ ông có giá trị biểu tượng và chính trị gì;
-đền thờ ông báo hiệu điều gì và người ta dựa trên truyền thống nào;
– Những thể thức thờ phụng đều được đồ theo những nghi lễ Việt, hiện hành khoảng hơn 300 km về phía Nam. Tại sao?” [15]
Tác giả Philippe De Filler đã giải đáp rất chính xác là: do công lao vô cùng to lớn của Hoàng công Chất đối với nhân dân các dân tộc, Ngài đã trở thành một người anh hùng “hoàn toàn bản địa”. và là niềm tự hào lớn của họ:
“Quan niệm của cư dân Thái là quyền lực của Keo Chất trải dài từ bờ sông Đà dến bờ sông Mã đến tận Trung quốc , mà Mường Thanh là trung tâm. Đó là một cách nhớ lại nền độc lập mà trước đây, vùng Tây Bắc được hưởng. Lúc bấy giờ Hoàng Công Chất được coi như một người anh hùng hoàn toàn bản địa, trị vì toàn vẹn (không chia cho ai) trên một vùng lãnh thổ rộng lớn là và biểu tượng cho sự thống nhất trong mường. Chứng cớ là đoạn sử thi sau đây được dân Thái vùng Sông Đà hát:
Xem đây, dưới xuôi có vua
Trên này có chúa
Chúa xây bản dựng mường
Mọi người được yên ổn làm ăn……”[16]
KẾT LUẬN
“Hoàng Công Chất là biểu trưng của khí phách hiên ngang, của ý chí chiến đấu dẻo dai phi thường, của tài chỉ huy chiến đấu ở nhiều địa hình rất khác nhau”[17] Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần đã nhận đinh rất đúng. Và hơn nữa, tài năng cùng phẩm chất trên của cá nhân được nhân lên hàng trăm lần khi Ngài đã cùng các thủ lĩnh và các dân tộc Tây Bắc thực hiện sự nghiệp lịch sử thiêng liêng là xây dựng liên minh tiền Nhà nước mà ông là chuá lớn; được toàn dân vô cùng khâm phục và biết ơn. Sự biết ơn này được biểu hiện mạnh mẽ ở các thơ ca xưng tụng , khi ông tại thế và việc thờ phụng sau khi Ngài tạ thế, cả theo nghi lễ thành hoàng và nghi lễ xên mường.
Thủ lĩnh Hoàng Công Chất cùng các dân tộc Tây Bắc gắn bó xoắn xuýt làm một như vậy, trở thành một sức mạnh vô địch, bách chiến bách thắng , lẫy lừng.
Vậy mà, mệnh trời , chỉ có mệnh trời mới bẻ gãy được ngọn cờ trong tay Ngài và tiếc thay những người kế vị không tiếp tục giương cao được ngọn cờ và phát huy sự nghiệp của tiền nhân.
Tuy nhiên, đến nay và mãi mãi muôn đời, thủ lĩnh Hoàng Công Chất vẫn còn lại trong lòng người Việt Nam, lòng cá dân tộc Tây Bắc./.
P.Đ.N.
(31st Jan, 2014 -> 6th Feb, 2014)
[1] Trong các tài liệu: 1.Từ điển địa danh 2.Đồn thú ở Tân Cương thời Thanh và người Việt Nam. 3.Bước đầu nghiên cứu về nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng.(Chuyển dẫn theo Chu Xuân Giao)
[2] Phạm Đặng Xuân Hương:Đặc điểm thể loại của sử thi Chương ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ ngữ văn, H, 2013, tr.30-35.
[3] Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H. 1978, tr. 349.
[4] Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.147.
[5] Đặng Nghiêm Vạn- Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc , Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 75, 1965, tr.52.
[6] Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, t., 341-342.
[7] -Đặng Nghiêm Vạn- Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc , Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 75, 1965, tr.51.
-Phạm Văn Lực: Hoàng Công Chất với cuộc tiễu trừ giặc Phẻ ở Tây Bắc, app.utb.vn/qlkh/…
[8] [8] -Đặng Nghiêm Vạn- Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc , Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 75, 1965, tr.51.
-Phạm Văn Lực: Hoàng Công Chất với cuộc tiễu trừ giặc Phẻ ở Tây Bắc, app.utb.vn/qlkh/…
– Nguyễn Khắc Thuần: Hoàng Công Chất, VietnamDefence
[9] Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.340
[10] -Phạm Thận Duật: Hưng Hóa ký lược và Phạm Thận Duật: Cuộc đời và tác phẩm, H, 2000. NXB Văn hóa thông tin. tr. 157;
Chuyển dẫn theo Philippe De Failler : Une divinites de circonstance –le culte de Hoàng Công Chất à Điện Biên Phủ , BEFEO, 2006, 93, p.186.
-Nhân đây xin chân thành cám ơn bà Mạc Thu Hương và ông Philippe Papin đã gửi cho tài liệu kịp thời.
-Phạm Thận Duật: Cuộc đời và tác phẩm, http://www.sudoc.fr/156756331.
[11] Trương Hữu Thiêm:Ai về Bản Phủ- Mường Thanh. H, Xưa & Nay, 1998, số 49, tr.10-11-chuyển dẫn theo F. Failler , tài liệu đã dẫn, tr.201.
[12] Lương Thị Đại (chủ biên) và cộng sự: Lễ xên mường của người Thái đen ở Mường Then, NXB Đại học quốc gia, H, 2013, tr. 8 và 55-56.
[13] P. De Filler, tài liệu đã dẫn , tr. 184
[14] P.De Filler, tài liệu đã dẫn, tr.186.
[15] P, De Filler, tài liệu đã dẫn, tr. 184
[16] P. De Filler, tài liệu đã dẫn, tr.197
[17] Nguyễn Khắc Thuần: Hoàng Công Chất, VietnamDefence
P.Đ.N.
(31st Jan, 2014 -> 6th Feb, 2014)
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.