- Đang online: 2
- Hôm qua: 1220
- Tuần nay: 21342
- Tổng truy cập: 3,371,348
ÔNG TRẠNG THANH LIÊM
- 561 lượt xem
ÔNG TRẠNG THANH LIÊM
Nguyễn Lân
Mỗi khi nói đến các ông trạng hoặc các ông sứ giả ta sang Tầu, người ta phải nghĩ đến ông Mạc Đĩnh Chi.
Ông Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng-động, huyện Chí Linh (tỉnh Hải dương ngày nay), nguyên là dòng dõi ông Hàn lâm học sĩ Mạc Hiển Tích đời Lý Nhân Tôn.
Học ở trường Trần Ích Tắc, ông đỗ Trạng nguyên năm Giáp thìn (1304). Khi ông vào bái yết vua Trần Anh Tôn, vua thấy mặt xấu xí không muốn cho đỗ trạng, nhưng ông dâng bài phú “Ngọc tỉnh liên” để tự ví mình như cây sen trong giếng ngọc. Vua đọc cho là kiệt tác, rồi mới yêu dùng.
Nói đến ông Mạc Đĩnh Chi, người ta thường nhớ đến những lòi ứng đối lanh lẹn của ông khi đi sứ Tàu(1), hoặc chuyện ông xé con chim sẻ trên một bức tranh thêu ở nhà Tể tướng nước Nguyên(2), hoặc bài thơ ông đề quạt mà được vua Tàu khen thưởng(3), hoặc những bài thơ ông dùng để vịnh các nhân vật trong lịch sử Tàu(4),hoặc bài văn tế ông đọc trước bàn thờ một vị công chúa Nguyên(5) hoặc nữa những câu đối rất hóm hỉnh ông tặng các bạn đồng liêu(6).
Nhưng còn một điều đáng nói nhất về ông mà ít người để ý đến. Chính là cái đức thanh liêm của ông.
Sử chép rằng tiếng liêm khiết của ông đồn đến tai vua; một hôm nửa đêm vua cho người đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Sáng dậy, trông thấy tiền, ông liền đem vào triều tâu xin vua bỏ tiền ấy vào kho. Vua khen ngợi nói:
– Đó là trẫm thử khanh đấy. Tiền ấy trẫm thưởng cho khanh.
Một ông trạng nổi tiếng giỏi giang bặt thiệp lan cả ra ngoại quốc mà làm quan vẫn giữ được một niềm thanh bạch, trung chính thực là một người hiếm có trong sử sách.
Chú thích
(1)Trong sách chép rằng: khi ông đi sứ Tầu vì trời mưa gió nên ông đến cửa ải chậm, người Tàu đóng cửa quan lại, rồi thả một vế câu đối xuống thử tài ông. Vế ấy thế này:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
(Qua ải chậm, cửa ải đóng, xin quá khách qua ải)
Ông liền đối:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.
(ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước).
Lại một hôm, ông cưỡi lừa dạo phố bên Tàu, chạm phải một người Tàu, người ấy hỏi rằng:
Xúc ngã kỵ mã, đông dị chi nhân dã, tây di chi nhẫn dã?
(Chạm vào ngựa ta cưỡi, người rợ đông hay người rợ tây?)
Ông liền đáp:
Át dư thừa lư, nam phương chi cường, bắc phương chi cường dư?
(Chắn lừa ta đi, mạnh phương Nam hay mạnh phương Bắc?)
(2)Lúc qua sứ Nguyên, một hôm vào chơi nhà viên Tể tướng, ông trông thấy một con chim sẻ đậu trên một cành trúc thêu trên bức lụa.
Ông tưởng là sẻ thực, đến vồ; nhưng mọi người cười rộ, ông điềm nhiên xé con chim sẻ thêu đi.Người Nguyên hỏi cớ sao, ông nói:
Sẻ ví như kẻ tiểu nhân, trúc ví như người quân tử, nếu để tiêu nhân đứng trên người quân tử thì không còn thể thống gì. Tôi vì Thiên triều mà trừ đi.
(3)Một hôm, ông cùng vào chầu vua Nguyên với sứ Triều Tiên. Vua Tàu bảo hai người làm một bài thơ đề quạt. Ông còn đang nghĩ đã thấy sứ Triều Tiên đề hai câu:
Uẩn long trùng trùng, Y Doãn Chu công;
Đông hàn thê thê, Bá Di Thúc Tề
(Trời hè nóng bức như Y Doãn Chu Công
Ngày đông rét mướt giống Bá Di Thúc Tề)
Liếc mắt nhìn thấy quản bút, ong hiểu tứ, liền theo đó đề rằng:
Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô
Nhĩ ư tư thời hề, Y Chu cự nho
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ
Nhĩ ư tư thời hề, Di Tề ngã phu.
Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng.
Duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù.
(Vàng chảy, đá tan, trời đất như lò lửa, lúc ấy người được như Y Doãn, Chu Công là bậc cự nho; gió bắc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, lúc ấy ngươi phải như Bá Di, Thúc Tề là kẻ bị đói.
Ôi! Dùng thì làm, bỏ thì cất, ta cùng ngươi cũng giống nhau chăng?)
(4)Vịnh Đào Tiềm ở Bành trạch, ông có bài này:
Tự tính bản nhàn khoáng, sơ bất tỉ lục lục
Đẩu mễ khẳng chiết yêu, giải án ninh từ lộc.
Phù sơ ngũ châu liễu, lãnh đạm nhất ly cúc
Liêu liêu thiên tải hậu, thanh danh ngô khả phục.
Dịch:
Tính sẵn thích nhàn tản
Chẳng như phường ô trọc,
Đấu gạo chịu gãy lưng,
Treo ấn thà từ lộc
Xum xoe năm cây liễu,
Lạnh lẽo một rào cúc
Lồng lộng sau nghìn thuở
Thanh danh ta cũng phục.
– Qua bờ sông Ô Giang, nghe nói thuyền bè qua miếu Hạng Võ nếu không đốt vàng sẽ bị sóng gió làm đắm, ông có ngâm bài thơ này:
Quân bất quân hề thần bất thần, như hà miếu mạo tại giang tân
Giang đông tích nhật do hiềm tiểu, hà tích thiêu tiền bách vạn cân?
Dịch:
Quân chẳng quân mà thần chẳng thần
Cớ gì miếu mạo chốn giang tân
Xưa kia cho đất Giang đông nhỏ,
Sao hám tro vàng kể triệu cân?
(5)Có sách chép rằng: Khi ông qua sứ Tầu, gặp lúc một công chúa nhà Nguyên mất; người ta cắt ông vào đọc chúc. Nhưng khi giở bản chúc văn, ông chỉ thấy có bốn chữ Nhất, thế mà ông nghiễm nhiên đọc được thành bài.
Thanh thiên nhất đoá vân, hồng lô nhất điểm tuyết. Thượng uyển nhất chi hoa, Quảng hàn nhất phiến nguyệt. Y! vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
Dịch:
Một đám mây trên trời xanh, một giọt tuyết trong lò trời.
Một cành hoa ở vườn Thượng uyển, một vầng trăng ở dưới ao tiên.
Than ôi! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.!
(6)Trong khi làm quan tại triều, ông có một ông bạn đồng liêu có hai vợ hay ghen tuông nhau. Một hôm, tan triều, ông gọi ông bạn kia trao cho một đôi câu đối, nói mới nghĩ ra để tặng bạn dán cửa buồng. Câu đối ấy đều dùng liền trong sách Hán Cao tổ và trong kinh Thư, mà rất hợp vói cảnh bạn ông:
Đông đầu Hán-vương thắng, Tây đầu Hạng vương thắng, quyền túc tại túc hạ;
Chinh Đông Tây- di oán, chinh Nam Bắc-địch oán, hà đọc hậu dự?
(Danh Đông Hán vương được, sang Tây Hạng vương được, quyền ở dưới gót;
Đánh Đông mọi Tây oán, đánh Nam rợ Bắc oán: sao đến ta sau?
(Nguyễn Lân: Những trang sử vẻ vang, Mai Lĩnh xuất bản -1943, tr 136- 142).
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.