- Đang online: 2
- Hôm qua: 1145
- Tuần nay: 19225
- Tổng truy cập: 3,370,559
Nguồn gốc ngôi đình thời Mạc 769
- 674 lượt xem
Nguồn gốc ngôi đình thời Mạc
Xuất hiện rộng rãi ở thế kỷ XVI, phải chăng ngôi đình đã có từ rất xa xưa? Như ở trên vừa nêu, có một ngôi đình (Thụy Phiêu) được “ tu lí” vào năm 1531, một ngôi đình khác ( Mão Điền) được sửa lại vào năm 1587, còn một ngôi đình nữa (Đại Đoan) được dựng năm 1585, nhưng trên một nền đình cũ. Trong các ngôi đình làm mới, có một ngôi đình được làm vào năm 1531. Vì lẽ đó, rất có thể ngôi đình đã xuất hiện vào thời Lê sơ như đoạn ghi chép trong Thông sử sau đây: “ Năm Nhâm Ngọ (1522)… vua bèn tránh ra phía tây Thăng Long, đóng ở đình thôn Nhân Mục cựu”.
Mặt khác, ngôi đình ở thế kỉ XVI như vừa nêu trên, là sản phẩm của làng xã, gắn với làng xã, hoàn toàn do làng xã tự lo liệu, dường như không có sự giúp đỡ lớn của các vị quan lại trong cung đình như việc xây dựng chùa Phật cùng thời kỳ này và xây dựng đình làng ở thế kỷ XVII. Cụ thể như đình Đại Đoan do các vị hương lão, hương trường trong làng đứng ra xây dựng, đình Trừng Hoài thì hoàn toàn do 3 giáp trong làng lo liệu, còn đình Hậu Bổng do dân làng cúng ruộng và làm đình…Trường hợp đình Mão Điền cũng do các vị quan viên xã thôn trưởng đứng ra tu sửa, nhưng do thiếu tiền, vật liệu mà họ đã đề nghị với Vũ Kì chức Vũ Úy là người địa phương giúp đỡ tài chính, rồi lập giao ước tôn thờ như một Hậu Thần. Đình Nghênh Phúc (Quỳnh Hải, Quỳnh Phụ, Thái Bình) được bà Chánh phu nhân vị quan Thượng trụ quốc cúng 108 quan tiền và 4 cây gỗ làm đình mới. Người dân không tôn bầu Hậu cho bà mà nhận làm gia thần, đời đời phụng thờ hương hỏa. Điều đó chứng tỏ lệ bầu Hậu thần chưa phải đã phổ biến ở thời Mạc. Nhưng ngay sau đó, từ những năm đầu thế kỉ XVI, lệ bầu Hậu trở lên phổ biến hơn, nhiều ngôi đình được làm do bổ đầu đóng góp của dân làng, như văn bia đình Thổ Hà ( Việt Yên, Bắc Giang) đã ghi lại được.
Là sản phẩm của làng xã, ngôi đình chỉ có thể xuất hiện khi làng xã phát triển và định hình là một đơn vị hành chính độc lập. Thời kì đó, có thể rõ nét nhất từ thời Lê Sơ thế kỉ XV, với sự xuất hiện chính thức đơn vị hành chính cơ sở đó là “ xã”. Một xã có thể là một làng hoặc cũng có thể bao gồm nhiều làng. Vai trò của làng xã trong quản lý xã hội được khẳng định. Mọi hoạt động tín ngưỡng ở địa phương đều do làng xã đảm nhận, như sự chuyển giao quản lý chùa Phật từ nhà nước sang dân làng từ sau thời nhà Trần trở đi mà chúng tôi đã nêu ở trên. Đây cũng là thời kì xuất hiện đơn vị hành chính “ tổng” sản sinh trên cơ sở phát triển của làng xã và nhu cầu liên kết các làng xã lại.
Tên gọi “ đình” cũng được gặp trong Hồng đức thiện chính, bộ Luật thời Lê Mạc. Trong bộ luật này , có một điều luật quy định về lập Hậu thần, Hậu Phật, ghi rằng: “ nhà giàu thì bỏ tiền của ra làm đình, người nhân thì công đức làm chùa…Vậy con cháu nhà đặt Hậu ở đình hay ở chùa mà thấy kẻ sửa lễ làm Hậu có trái lệ, thì trình cáo ngay đến nha môn, truy đòi lại tiền tài của người trước đã làm Hậu”… Cứ theo đoạn trích này thì đã xuất hiện lệ bầu Hậu thần thờ cúng ở đình dưới thời Hồng Đức và đương nhiên đã có ngôi đình trước đó. Tuy nhiên, như phần mở đầu, chúng tôi đã xác định Hồng Đức thiện chính là bộ luật được biên soạn vào thời Mạc, trên cơ sở bộ luật Hồng Đức. Song có lẽ tất cả những điều luật ở trên đây đều có từ thời Hồng Đức, mà một số đã được thêm vào dưới thời Mạc. Thực tế trong bộ Luật Hồng Đức trước đó, chúng ta chưa hề thấy điều luật về bầu Hậu Thần, Hậu Phật này. Mặt khác, tập sách Hồng Đức thiện chính lưu truyền hiện nay là bản chép tay muộn, có nhiều chỗ tương đồng với Quốc triều chính lệnh thiện chính soạn dưới thời vua Lê Dụ Tông ( 1705 – 1729) và sách Quốc triều thiện chính tập soạn vào năm Long Đức thứ 3 ( 1734). Vì thế, sách Hồng Đức thiện chính này có thể được sao chép vào thế kỷ XVII hoặc XVIII và rất có thể có nhiều điều luật được bổ sung thêm qua những tập “ thiện chính” khác cùng thời kì này.
Thực tế lệ bầu Hậu Thần, Hậu Phật có từ bao giờ? Tất cả tư liệu bi kí đều hco biết rằng lệ bầu Hậu Thần gắn với đình làng mới chỉ xuất hiện từ thế kỉ XVII. Thế kỉ XVI đã có lệ bầu Hậu Thần, song không phải ở đình mà ở miếu. Trong kho thác bản văn bia của Viện Hán Nôm có hai thác bản bia ở đình Nguyên Khê (Cẩm Giàng, Hải Dương) là Bản đình kí kị bi kí (N.2917-8) với niên đại là Quang Hưng thứ 3 (1579) và Kí kị hậu bi kí (N.2921-2) với niên đại là Quang Hưng thứ 5 (1581). Hai văn bia này được một số nhà sử học cho là bia Hậu Thần sớm nhất và dùng để minh chứng cho lệ bầu Hậu Thần phổ biến ở thế kỉ XVI. Thực tế hai thác bản này bị làm giả niên đại. Bởi nếu bia được dựng vào khoảng thời gian trên, thì vùng này khi đó đang chịu sự cai quản của nàh Mạc, nên không thể mang niên hiệu Quang Hưng thời Lê được. Thêm nữa trong văn bia có chữ “tỉnh”, đơn vị hành chính mới có từ năm 1831 dưới thời Nguyễn. Có nghĩa là bia thời Nguyễn bị người in rập bia làm giả niên đại thành Quang Hưng thời Lê thế kỉ XVI. Trong khi thời kì nhà Mạc thế kỉ XVI, có một văn bia Hậu Thần là Hậu Thần từ vũ bi kí (Đan Phượng, Hà Nội) dựng năm Quang Bảo thứ 4 (1557) ghi về Hậu Thần Nguyễn Vĩnh Miên được dân làng cúng lễ, nhưng không phải ở đình mà ở từ vũ.
Trường hợp bà Phạm Thị Tâm cúng một mẫu đất cho làng Hậu Bổng (Gia Lộc, Hải Dương) làm đình năm 1571, nhưng bà không được bầu làm Hậu Thấn thờ cúng ở đình mà được bầu làm Hậu Phật thờ cúng ở chùa. Lại có bà Hậu Phật Đỗ Thị Sâm cúng 1 mẫu ruộng và 5 quan tiền cổ cho làng An Trạch (Lí Nhân, Hà Nam) năm 1531 để làm miếu thần. Còn trường hợp Vũ Kì giúp làng tiền của để trùng tu đình Mão Điền (Thuận Thành, Bắc Ninh) năm 1587, thì được dân làng rất kính trọng, định lệ là hàng năm vào lễ kì phúc thì mời Vũ Kì ngồi chiếu trên, sau khi trăm tuổi thì rước bài vị đặt ở đó. Tuy vậy Vũ Kì vẫn không phải là Hậu Thần. Tương tự như vậy trường hợp huyện lệnh Yên Thế hiệu là Trúc Hiên tiên sinh cũng cúng tiền cho làng sửa chữa ngôi đình này để “Xin được rước bài vị của cha về lễ ở đình trong kì lễ cầu phúc” (Bia 135). Nếu ở các thế kỉ sau thì các vị trên đều đã được bầu làm Hậu Thần và họ còn cúng thêm ruộng để cúng giỗ sau khi trăm tuổi. Chẳng vậy mà các đình thế kỉ XVI hầu như không có ruộng hậu và ruộng giỗ như ở chùa, miếu cùng thời và ở đình vào các thời kì sau đó. Trường hợp bà Chánh phu nhân cúng 108 quan tiền, 4 cây gỗ giúp hương Đồng Ngoại (Thái Bình) dựng lại đình Nghênh Phúc năm 1586, cùng một mẫu ruộng hương hỏa như lệ bầu Hậu. Tuy nhiên người dân ở đây không tôn bầu Hậu cho ông bà mà nhận làm gia thần, lưu truyền phụng thờ hương khói (Văn bia thời Mạc, tái bản 2010, tr.406).
Rõ ràng là ở thế kỉ XVI, lệ bầu Hậu Phật gắn với ngôi chùa thì đã xuất hiện, còn lệ bầu Hậu Thần gắn với ngôi đình thì chưa phổ biến. Điều đó chứng tở ngôi đình thời kì này chưa hoàn toàn dùng để cúng lễ, trong khi đó, chùa làng và việc thực hành tín ngưỡng nơi chùa Phật là phổ biến hơn cả. Còn nữa một số địa danh bằng chữ Nôm liên quan tới đình làng như “cửa đình”, “sau đình”, “trung đình”, “đình cả” được khắc trên bia đá thì cũng chỉ mới xuất hiện từ thời kì nhà Mạc trở đi, trong khi đó, các địa danh liên quan tới ngôi chùa như “cửa chùa”, “sau chùa”… thì lại xuất hiện khá sớm mà nhiều văn bia thời Trần và thời Lê Sơ đã ghi lại được. Đương nhiên là các địa danh này xuất hiện muộn hơn nhiều so với sự yên vị của các ngôi chùa, ngôi đình vốn phải có trước đó. Nhưng một điều hiển nhiên là những tên Nôm “ cửa đình”, “ sau đình” chưa xuất hiện vào thế kỷ XV và trở lên phổ biến vào thế kỷ XV được.
Song song với việc thờ Phật, việc thờ cúng thần linh ở miếu Thần ngày càng được mở rộng, kéo theo các hoạt động trong tế lễ, hội hè ngày càng sôi động, cùng với sự phát triển và tăng cường quyền lực của làng xã, nhất là từ khi làng xã chính thức trở thành đơn vị hành chính cơ sở dưới thời Lê. Điều đó dẫn đến sự xuất hiện đình làng và ngôi đình ngày càng trở lên phổ biến. Đình làng vì vậy, theo chúng tôi, xuất hiện trước thời Mạc ( Thời Lê sơ, thế kỷ XV) không nhiều.
Nguồn: Đinh Khắc Thuân, Góp phần nghiên cứu Lịch sử Vương triều Mạc
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.