- Đang online: 3
- Hôm qua: 787
- Tuần nay: 14035
- Tổng truy cập: 3,368,468
LỊCH SỬ – VĂN HOÁ PHÁI HỆ MẠC ĐĂNG LƯỢNG Ở NGHỆ AN
- 2689 lượt xem
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ KIM CHUNG
LỊCH SỬ – VĂN HOÁ PHÁI HỆ
MẠC ĐĂNG LƯỢNG Ở NGHỆ AN
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60. 22. 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS: Nguyễn Trọng Văn
VINH, 2007
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ khoa học của đề tài
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp khoa học của đề tài
6. Bố cục luận văn 8
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGHỆ AN – NƠI AN CƯ VÀ PHÁT TRIỂN PHÁI HỆ
MẠC ĐĂNG LƯỢNG
1.1. Nghệ An – đất nước con người 9
1.1.1. Địa lý – lịch sử hình thành Nghệ An 9
1.1.2. Nghệ an truyền thống lịch sử – văn hoá 11
1.1.3. Một số dòng họ lớn ở Nghệ An 15
1.2. Quá trình phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An 19
1.2.1. Họ Mạc Việt Nam 19
1.2.2. Phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An 26
1.2.3. Sự phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An 31
CHƯƠNG 2: ĐÓNG GÓP CỦA PHÁI HỆ MẠC ĐĂNG LƯỢNG Ở
NGHỆ AN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC
2.1. Đóng góp của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước 42
2.1.1. Phát triển kinh tế, xây dựng xóm làng 42
2.1. 2. Bảo tồn phát triển các giá trị văn hoá 45
2.2. Đóng góp của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An trong sự nghiệp chống ngoại xâm và giải phóng dân tộc 52
CHƯƠNG 3: TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ CỦA PHÁI HỆ
MẠC ĐĂNG LƯỢNG Ở NGHỆ AN
3.1. Gia phong của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An 69
3.2. Truyền thống văn hoá của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An 78
3.2.1. Truyền thống giáo dục khoa bảng 78
3.2.2. Nghề dạy học 80
3.2.3. Đền, nhà thờ, lăng mộ (từ đường, văn bia, lăng mộ) 82
3.2.3.1. Đền 82
3.2.3.2. Nhà thờ 88
3.2.3.3. Lăng mộ 94
C. KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
PHỤ LỤC 109
Lời cảm ơn
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS – TS Nguyễn Trọng Văn đã hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn các cụ cao niên trong phái hệ Mạc Đăng Lượng, trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sau Đại học, khoa Lịch sử trường Đại học Vinh và gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này
Tác giả: Lê Thị Kim ChunG
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhiều vấn đề lịch sử như: những cải cách của Hồ Quý Ly và vương triều nhà Hồ, vị trí vai trò của nhà Mạc đối với lịch sử dân tộc, vương triều Tây Sơn, nhà Nguyễn, v.v… đã được các nhà sử học trong ngoài nước quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và đưa ra nhiều đánh giá khách quan, sát với thực tiễn lịch sử. Nhiều hội thảo khoa học cấp Quốc gia về vị trí, vai trò của nhà Mạc, nhà Nguyễn được tổ chức ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn,… Nhiều luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp Đại học có nội dung liên quan đến những vấn đề trên đã được nghiên cứu và bảo vệ thành công.
Chọn đề tài: “Lịch sử – văn hoá phái hệ Mạc Đăng Lương ở Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp là nhằm góp phần thiết thực vào việc nghiên cứu đánh giá lại nguồn gốc, vị trí vai trò nhà Mạc nói riêng và đóng góp của dòng họ Mạc nói chung đối với lịch sử dân tộc trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước.
1.2. Khác với đánh giá, nhận định của các sử gia phong kiến dưới thời Lê Trung Hưng, thời Tây Sơn và thời Nguyễn về dòng họ Mạc và vương triều họ Mạc, trong những năm gần đây, Giáo sư Trần Quốc Vượng, Giáo sư Phan Huy Lê, Giáo sư Văn Tạo, Giáo sư Mạc Đường, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Phan Đăng Nhật, v.v…. có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ Mạc nói chung và vương triều Mạc nói riêng công bố với nhiều nội dung mới. Năm 2000, Ban liên lạc họ Mạc phối hợp cùng Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia tổ chức Hội thảo tại thành phố Hải phòng với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong cả nước đánh giá nhiều nội dung liên quan đến dòng họ Mạc và vương triều nhà Mạc. Các nhà nghiên cứu lịch sử học, văn học, phả học,… trên cơ sở nhiều nguồn tư liệu đã và đang từng bước khôi phục lại bức tranh về vương triều nhà Mạc và dòng họ Mạc trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Nghiên cứu về phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An trong suốt gần 500 năm qua chúng tôi hy vọng có thể đóng góp ít nhiều về mặt tư liệu, đưa ra một số nhận định bước đầu về những đóng góp của một trong 5 phái hệ Mạc định cư trên đất Nghệ An (từ 5 phái hệ này đã lập nên 187 chi họ Mạc định cư trên đất Nghệ An) đối với lịch sử dân tộc trên các phương diện: Xây dựng phát triển xóm làng, bảo tồn phát triển các giá trị văn hoá của dân tộc, chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ, giải phóng dân tộc, khoa bảnt, v.v…. Đây thực sự là một trong những vấn đề có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiến sâu sắc.
1.3. Qua tiếp xúc tư liệu và điều tra điền dã trên địa bàn các huyện: Nam Đàn, Thanh Chương, Đông Lương, Nghi Lộc, thành phố Vinh, gặp gỡ trao đổi với các đại diện Ban liên lạc dòng họ Mạc ở Nghệ An, các trưởng tộc chi nhánh dòng họ Mạc thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng chúng tôi thấy về quá trình hình thành phát triển của phái hệ này so với các phái hệ khác trong cùng họ Mạc định cư trên đất Nghệ An có nhiều nét riêng biệt. So với các dòng họ: Trần, Lê, Nguyễn Đình, Nguyễn Cảnh, Đặng, Cao, v.v… cùng cộng cư trên một địa bàn dân cư nhưng phái hệ Mạc Đăng Lượng nổi lên nhiều vấn đề cần nghiên cứu làm sáng tỏ cả về quá trình định cư lập nghiệp cả về gia phong đạo giáo và những đóng góp của phái hệ này đối với công cuộc chống ngoại xâm, xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá,….
Do đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Lịch sử – văn hoá phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An”làm đề tài nghiên cứu. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn gửi đến những người con ưu tú của phái hệ Mạc Đăng Lượng một nén nhang để tỏ lòng thành kính đối với những đóng góp to lớn của họ cho quê hương đất nước. Chúng tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu, tìm hiểu, khôi phục, phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của phái hệ Mạc Đăng Lượng cho hôm nay và cả mai sau.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Hiện nay cùng với xu hướng tìm về cội nguồn, vấn đề nghiên cứu về văn hoá dòng họ cũng đang được rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, bởi văn hoá dòng họ là một trong những thành tố tạo nên văn hoá làng xã, không có một lịch sử dòng họ nào mà lại không liên quan, gắn bó với lịch sử dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu về lịch sử phái hệ, lịch sử dòng họ, lịch sử làng, xã một mặt nhằm bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dòng họ, mặt khác nhằm giao lưu văn hoá, phục vụ sự nghiệp cách mạng, bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam hiện nay và tương lai.
Từ trước đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về quá trình phát triển “Lịch sử – văn hoá phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An”. Trong gần 30 năm trở lại đây, con cháu trong hội đồng gia tộc dòng họ Mạc và một số nhà nghiên cứu đã có sách, bài viết, trong đó có nói về họ Mạc ở Nghệ An và tập trung ở các vấn đề sau đây:
– Bài “Danh sách các chi họ Mạc ở tỉnh Nghệ An”, “Đường lối đổi mới và công cuộc phục thuỷ họ Mạc ở Nghệ An và cả nước” của Phan Đăng Nhật đã có thống kê các dòng họ từ gốc họ Mạc đổi sang các dòng họ khác ở Nghệ An, các phái hệ họ Mạc chính ở Nghệ An hiện nay. Bài viết cũng nói về một số đóng góp của các phái hệ họ Mạc chính ở Nghệ An trong lịch sử dân tộc.
– Bài “Đôi nét về dòng họ Hoàng Trần ở xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An” của Trương Quế Phương tham gia hội thảo khoa học văn hoá các dòng họ ở Nghệ An với sự nghiệp thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Nghệ An năm 1977 đã giới thiệu khái quát về dòng họ Hoàng Trần ở Đặng Sơn, Đô Lương, Nghệ An. Bài viết một mặt nói đến đóng góp của dòng họ Hoàng Trần trên đất Đô Lương, mặt khác còn đề cập đến gia phong và truyền thống hiếu học khoa bảng.
– Bài “Thần tổ Mạc Đăng Lượng (1496-1604) thân thế sự nghiệp diễn ca”, “Mạc Đăng Lượng, một danh nhân hai đền thờ gắn với hai tượng đài liệt sĩ cách mạng” của Hoàng Mạnh Trang nói về thân thế, sự nghiệp cụ tổ Mạc Đăng Lượng và cụ có hai nơi lập đền thờ. Hậu duệ của cụ có nhiều người đóng góp cho sự nghiệp cách mạng.
– Cuốn sách “Hợp biên thế phả họ Mạc” của Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc năm 2001, viết về họ Mạc Việt Nam từ thời kỳ khai đế nghiệp đến thời kỳ thay tên đổi họ, danh sách các chi họ Mạc ở các tỉnh. Cuốn sách cũng nói tới đóng góp của các dòng họ gốc Mạc trong lịch sử, trong đó có đóng góp của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An.
– Cuốn “Gương sáng dòng họ” tập 1, Nhà xuất bản Lao động năm 2002, tập 2 xuất bản năm 2004, viết về sự đóng góp của các nhân vật tiêu biểu gốc họ Mạc trong lịch sử dân tộc.
– Cuốn sách “Tộc phả họ Mạc Nghệ Tĩnh” của Ban liên lạc họ Mạc Nghệ Tĩnh, sách “Giòng tộc ta, tổ tiên ta niềm kính yêu và tự hào không chỉ riêng ta” của Ban liên lạc Mạc tộc thành phố Vinh, lưu tại thư viện Nghệ An, kí hiệu 4198. Hai cuốn sách này đã nêu lên được một số vấn đề nguồn gốc hình thành phát triển, một số đóng góp của các phái hệ họ Mạc ở Nghệ An nói chung và phái hệ Mạc Đăng Lượng nói riêng. Tuy vậy, nội dung của hai cuốn sách chủ yếu mang tính chất của một cuốn phả họ, chưa đi sâu nghiên cứu về hệ thống hoá một cách đầy đủ, toàn diện về quá trình phát triển của phái hệ, đóng góp của phái hệ đối với lịch sử, những truyền thống văn hoá tiêu biểu mà phái hệ Mạc Đăng Lượng đã gìn giữ và phát huy được.
Nhìn chung, qua các cuốn sách, bài viết, tài liệu trên cũng cho ta thấy được phái hệ Mạc Đăng Lượng đã có những đóng góp nhất định đối với lịch sử quê hương và đất nước. Do đó đặt ra nhiệm vụ là cần đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện hơn về phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An để góp phần giữ gìn và phát triển lịch sử văn hoá địa phương nói riêng và văn hoá quốc gia nói chung.
3. Phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ khoa học của đề tài:
3.1. Phạm vi nghiên cứu:
– Thời gian: từ giữa thế kỷ XVI đến nay.
– Không gian: chúng tôi sẽ nghiên cứu về phái hệ Mạc Đăng Lượng trong phạm vi tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ khoa học của đề tài:
– Tìm hiểu tương đối toàn diện, có hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An, những đóng góp của phải hệ qua các thời kì lịch sử dân tộc: trung, cận và hiện đại.
– Tìm hiểu những truyền thống tốt đẹp, những di sản văn hoá tiêu biểu của phải hệ Mạc Đăng Lượng.
– Đi sâu tìm hiểu về các nhân vật tiêu biểu của phái hệ như: Lê Hồng Sơn, anh hùng lao động Hoàng Hanh,….
Từ đó mà hiểu thêm những công lao của họ đối với phái hệ, dân tộc.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi tham khảo, nghiên cứu các nguồn tư liệu sau:
4.1.1. Tài liệu gốc:
Chúng tôi nghiên cứu các bộ chính sử, các bộ gia phả thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An gồm 8 chi: gia phả họ Hoàng Trần ở xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương; gia phả họ Hoàng Văn, Hoàng Bá, Hoàng Sĩ ở Bắc Sơn, Nam Sơn, Yên Sơn huyện Đô Lương; gia phả họ Lê Đăng ở xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn, ở xã Đồng Văn huyện Thanh Chương và ở xã Nghi Phương huyện Nghi Lộc, Nghệ An…. các sắc phong, văn bia, câu đối, hoành phi ở đền Tán Sơn và nhà thờ họ Hoàng Trần….
4.1.2. Tài liệu nghiên cứu:
Các tài liệu nghiên cứu lịch sử, văn hoá mà chúng tôi tham khảo được như: Nghệ An kí của Bùi Dương Lịch, Hoan Châu kí của Nguyễn Cảnh Thị, Công dư tiệp chí của Vũ Phương Đề. Một số ấn phẩm của Ninh Viết Giao như: Văn bia Nghệ An, Nghệ An – Lịch sử và văn hoá, Văn hoá Nghệ An. Nhà họ Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử của Viện Sử học. Một số bài viết của Nguyễn Hữu Tâm như: về gia phả dòng họ Mạc, quá trình phát triển và nghiên cứu phả họ Mạc cùng một số bài viết của Phan Đăng Nhật như: danh sách các chi họ Mạc ở tỉnh Nghệ An, đường lối đổi mới và công cuộc “phục thuỷ” họ Mạc (ở Nghệ An và cả nước). Việc cải đổi tính danh họ Mạc của Hoàng Lê.
Đề cương công trình nghiên cứu định giá lại vương triều Mạc của viện khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh.
Một số ấn phẩm của ban liên lạc họ Mạc như: Hợp biên thế phả họ Mạc, Gương sáng dòng họ…..
4.1.3. Các tài liệu khác:
Ngoài các tài liệu trên, chúng tôi còn sử dụng các tài liệu công cụ để tra cứu như: “Khoa bảng Nghệ An (1075-1919)” của Đào Tam Tĩnh (2005), “Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919)”của Ngô Đức Thọ, “Từ điển nhân vật lịch sử” của Nguyễn Quốc Thắng và Nguyễn Bá Thế, “Việt Nam những sự kiện lịch sử” của Viện Sử học. Bên cạnh đó, chúng tôi còn khai thác một số tài liệu kỉ yếu hội thảo khoa học, một số tài liệu chép tay, một số báo, tạp chí có liên quan như: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hoá các tỉnh Bắc Trung bộ” năm 1997, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hoá các dòng họ ở Nghệ An”, năm 1997, “Nam Đàn – quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1989…. Tạp chí Văn hoá Nghệ An số 17 (tháng 6 năm 1998), tờ báo Cờ Giải phóng của Phủ uỷ Anh sơn ra ngày 19 tháng 4 năm 1931.
4.1.4. Tài liệu điền dã:
Để bổ sung tư liệu cho đề tài, chúng tôi còn tìm hiểu, khảo cứu, đi thực tế tại nhà thờ họ Hoàng Trần ở xã Đặng Sơn huyện Đô Lương và Đền Tán Sơn ở xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn và các chi họ khác. Đồng thời chúng tôi còn gặp gỡ, trao đổi với các cụ bô lão của phái hệ Mạc Đăng Lượng như: ông Hoàng Trần Kháng (Đặng Sơn – Đô Lương), ông Hoàng Mạnh Trang (Yên Sơn – Đô Lương), ông Lê Văn Lý (Xuân Hoà – Nam Đàn), ông Hoàng Trần Ky (thành phố Vinh).
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
4.2.1. Sưu tầm tư liệu:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sưu tầm, tích luỹ, sao chép tư liệu ở thư viện Nghệ An, thư viện Đại học Vinh, sao chép hoành phi, câu đối, gia phả, chụp ảnh sắc phong, nhà thờ họ Hoàng Trần, đền Tán Sơn và ở các chi họ. Sử dụng phương pháp phỏng vấn, nghiên cứu thực địa tại các nhà thờ họ Hoàng Trần, đền Tán Sơn và mộ đồng chí Lê Hồng Sơn và các chi còn lại.
4.2.2. Xử lí tư liệu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic để trình bày một cách có hệ thống quá trình hình thành và phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng theo thời gian diễn biến của lịch sử. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh gia phả, bia kí với chính sử. Qua đó, phân tích, đánh giá nêu lên mối quan hệ chặt chẽ, sự tác động qua lại giữa lịch sử phái hệ Mạc Đăng Lượng với quê hương đất nước.
5. Đóng góp khoa học của đề tài:
– Luận văn cung cấp hệ thống tư liệu thành văn, tư liệu điền dã có nội dung liên quan đến phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An để nghiên cứu một cách toàn diện về phái hệ nói riêng, dòng họ Mạc nói chung.
– Thông qua hệ thống tư liệu phong phú, luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về quá trình hình thành phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An trong gần 500 năm.
– Luận văn chỉ rõ những đóng góp của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An trên các phương diện: xây dựng xóm làng, phát triển kinh tế, văn hoá, chống ngoại xâm bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc cũng như giải phóng dân tộc, giữ gìn phát huy các truyền thống văn hoá, nề nếp gia phong.
– Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về dòng họ Mạc, biên soạn lịch sử địa phương và dạy học lịch sử địa phương trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông.
– Luận văn góp phần vào việc khơi dậy tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng và trân trọng những giá trị văn hoá truyền thống của cha ông cho thế hệ trẻ.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Nghệ An – nơi an cư và phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng.
Chương 2: Đóng góp của phái hệ Mạc Đăng Lượng trong lịch sử dân tộc.
Chương 3: Truyền thống văn hoá của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NGHỆ AN – NƠI AN CƯ VÀ PHÁT TRIỂN
PHÁI HỆ MẠC ĐĂNG LƯỢNG
1.1. Nghệ An – đất nước con người
1.1.1. Địa lý – lịch sử hình thành Nghệ An.
– Vị trí địa lý:
Nghệ An ở vào miền Bắc Trung bộ Việt Nam, nằm trong toạ độ từ 18o35’00” đến 20o00’10” vĩ độ bắc, và từ 103o50’25” đến 105o40’30” kinh độ đông.
Nghệ An phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía đông là biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Xiêng Khoảng, Pôlikhăm xay, Hủa Phăn thuộc nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, với đường biên giới dài 419 km. Diện tích tự nhiên của Nghệ An có 16.370 km2, đứng đầu cả nước [2;9].
Nghệ An là nơi có địa thế đẹp và rất đa dạng. Núi, đồi trung du là dạng địa hình chiếm phần lớn ở nơi này. Dãy Trường Sơn trùng điệp phía Tây có đỉnh Phuxailaileng cao 2.711m, trong lòng đất có chứa nhiều khoáng sản. Nghệ An là vùng có hầu hết các loài động vật, thực vật và cận ôn đới. Hệ thực vật rừng phong phú về chủng loại còn động vật có nhiều loại động vật quý hiếm. Nghệ An có bờ biển dài 82 km, có nhiều cửa lạch đẹp: lạch Cờn, lạch Quèn, lạch Thơi, lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội. Sông lớn nhất ở Nghệ An là sông Lam (tức sông Cả) sau đó tới sông Hoàng Mai, sông Dâu, sông Thơi, sông Bùng. Kênh nhà Lê là kênh lớn nhất trong hệ thống kênh đào Nghệ An.
Nghệ An là vùng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Vì vậy, ở nơi đây khí hậu khắc nghiệt hơn ở nơi khác. Với khí hậu gió Lào gay gắt cũng góp phần tạo nên tính cách con người Nghệ An khác với tính cách con người ở vùng khác.
– Hình thành địa danh:
Ngược dòng lịch sử, từ thời Bắc thuộc, trước công nguyên cho tới nay, vùng đất này đã trải qua nhiều thay đổi về đơn vị hành chính với nhiều tên gọi khác nhau. Thời thuộc Hán năm 111 (trước công nguyên), địa bàn Nghệ An hiện nay nằm trong huyện Hàm Hoan (một trong bảy huyện của quận Cửu Chân). Thời thuộc Tuỳ (năm 602) nằm trong huyện Cửu Đức (một trong tám huyện của quận Nhật Nam). Thời tiền Lê (980-1009), Lê Hoàn chia nước Đại Việt ra thành từng lộ, phủ, châu; vùng đất này thuộc Diễn Châu và Hoan Châu. Thời nhà Lý, năm Thông Thuỵ thứ ba (1036), Lý Thái Tông cho đổi Hoan Châu thành Châu Nghệ An, địa danh “Nghệ An” có từ lúc ấy. Năm 1101, Lý Nhân Tông nâng Châu Nghệ An thành phủ Nghệ An. Vào năm 1225, nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Nghệ An. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông định lại bản địa cả nước. Đơn vị hành chính trên phủ, huyện được gọi là thừa tuyên. Châu Diễn và Châu An được hợp làm thừa tuyên Nghệ An (bao gồm cả đất Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) [2;14].
Đến thời nhà Nguyễn, đơn vị hành chính là trấn bị bãi bỏ, cả nước được chia làm 29 tỉnh trực thuộc triều đình. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà Nguyễn cắt hai phủ Đức Thọ và Hàm Hoan, lập thành một tỉnh mới là Hà Tĩnh. Từ đó cho tới nay về cơ bản, địa giới của tỉnh Nghệ An không thay đổi.
Trong thời Pháp thuộc, từ năm 1896 trở đi, tỉnh Nghệ An có 5 phủ: Anh Sơn, Diễn Châu, Tương Dương, Hưng Nguyên và 5 huyện: Thanh Chương, Nam Đàn, Nghi Lộc, Yên Thành, Nghĩa Đàn.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính là cấp phủ được đổi thành huyện, còn cấp tổng (cấp trung gian giữa huyện và xã) bị bãi bỏ.
Đến ngày 19/4/1963, Hội đồng Chính phủ ra quyết định 52/CP, phê chuẩn việc chia lại địa giới ba huyện của tỉnh Nghệ An là Quỳ Châu, Anh Sơn, Nghĩa Đàn thành bảy huyện mới là Quế Phong, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Đô Lương, Anh Sơn, Tân Kỳ và Nghĩa Đàn.
Tiếp theo đó, ngày 10/10/1963, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 148CP về việc thành lập thành phố Vinh. Sau khi nhà nước thống nhất, từ năm 1976 đến năm 1991, tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được hợp nhất thành tỉnh Nghệ Tĩnh, từ tháng 8/1991 đến nay, Nghệ An lại được tách riêng thành một tỉnh như từ năm 1976 trở về trước.
Như vậy, địa danh Nghệ An được hình thành từ đời nhà Lý. Nơi đây đã sản sinh ra biết bao người con ưu tú của dân tộc, những vị trạng nguyên cống hiến hết mình cho đất nước. Nghệ An thật xứng là vùng đất mang tên gọi “địa linh nhân kiệt”.
1.1.2. Nghệ An: truyền thống lịch sử – văn hoá
Nghệ An vốn là vùng đất cổ, có cư dân sinh sống từ lâu đời. Một số phát hiện khảo cổ học đã chứng minh điều đó. Sự phát hiện di chỉ Thẩm Ồm (bên suối bản Thắm, thuộc xã Châu Thuận, huyện Quỳ Châu) đã khẳng định trên đất Nghệ An đã có người vượn cư trú cách đây khoảng 20 vạn năm. Ngoài ra, nhiều di chỉ khác ở Nghệ An như: Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu), làng Vạc (Nghĩa Đàn), đồi Dùng và đồi Rạng (Thanh Chương)… chứng tỏ con người nơi đây đã nhờ lao động mà tiến triển từ nền văn hoá này sang nền văn hoá khác, tiến bộ hơn.
Cùng với sự tiến triển của lịch sử, cư dân Nghệ An cũng ngày càng đông đúc. Từ văn hoá Đông Sơn thời các vua Hùng dựng nước đến nay, cư dân Nghệ An đã phát triển lên đến hàng triệu người với hàng trăm họ tộc, có nguồn gốc bản địa hoặc từ nơi khác thiên di đến. Người Nghệ An có tục thờ cúng tổ tiên và các vị có công với nước, với dân. Ngoài những ngôi đền lớn chung cho nhiều vùng dân cư, từng làng còn có đền thờ vị thành hoàng của địa phương [2;17]. Đây là một nét đẹp văn hoá của con người Xứ Nghệ.
Xứ Nghệ có bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng rất đáng tự hào. Trong hơn ngàn năm Bắc thuộc, nhân dân ở đây đã tích cực tham gia nhiều cuộc đấu tranh chống bọn thống trị ngoại bang, giành độc lập.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mùa xuân năm 40 bùng nổ ở quận Giao Chỉ được “dân ở Cửu Châu và Nhật Nam đều hưởng ứng cả”. Trong các cuộc khởi nghĩa của Chu Đọt ở quận Cửu Châu, năm 157; khởi nghĩa Lương Long ở quận Giao Chỉ năm 178; khởi nghĩa Bà Triệu năm 248, đồng bào các dân tộc ở huyện Hàm Hoan (bao gồm đất Nghệ Tĩnh ngày nay) đều tích cực hưởng ứng. Đến năm 542, nhân dân Xứ Nghệ đã góp phần xứng đáng trong cuộc khởi nghĩa của Lí Bí (Lí Nam Đế). Vào thế kỉ VIII, Mai Thúc Loan lãnh đạo nhân dân vùng Hoan – Diễn vùng dậy khởi nghĩa chống ách cai trị hà khắc, tàn bạo của nhà Đường. Từ thành Vạn An và căn cứ Sa Nam (Nam Đàn), ông cùng nghĩa quân kéo ra Ái Châu (Thanh Hoá), tiến công ra Bắc, đánh chiếm phủ thành Tống Bình (Hà Nội), giải phóng cả nước rồi xưng là Mai Hắc Đế (năm 722). Thành Vạn An trở thành quốc đô trong thời điểm ấy.
Năm 1285, nhân dân Nghệ An đã góp phần đánh chặn hướng tiến công từ Nam ra Bắc của giặc Nguyên – Mông. Chủ tướng giặc là Toa Đô phải bỏ vùng này rút quân ra Thanh Hoá. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đất Nghệ An có danh tướng Hoàng Tá Thốn, có công chặn giặc vùng ven biển và có biệt tài lặn để đục thủng thuyền giặc.
Vào thế kỉ XV, địa bàn chiến lược Nghệ An là “đất đứng chân” của khởi nghĩa Lam Sơn để chống giặc Minh, giải phóng đất nước. Tại đây đã diễn ra “trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Trong thời đó cương quốc công Nguyễn Xí (quê Nghi Lộc) lập được nhiều chiến công oanh liệt và có vai trò quyết định trong việc trừng trị bọn phản tặc, đưa Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông) lên làm vua, mở đầu một thời kì hưng thịnh vào bậc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Vào cuối năm Mậu thân (1788), khi người anh hùng “áo vải cờ đào” Quang Trung trên đường tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân Thanh dừng chân tại đất quê tổ Nghệ An đã tuyển quân, chỉ trong mấy ngày đã có hàng vạn thanh niên xứ Nghệ gia nhập nghĩa quân, góp phần xứng đáng vào đại thắng quân Thanh tại Ngọc Hồi, Đống Đa vào mùa xuân Kỷ Dậu (1789). Tại phía Nam thành phố Vinh, dưới chân núi Quyết và núi Kỳ Lân hiện còn dấu vết của Phượng Hoàng Trung Đô mà vua Quang Trung đã cho xây dựng để dời quốc đô từ Phú Xuân ra Nghệ An.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trước thái độ bạc nhược, đầu hàng của triều đình Huế, các nhà văn thân cùng nhân dân Nghệ An đã tỏ rõ quyết tâm đánh “cả Triều lẫn Tây”. Năm Giáp Tuất (1874), tại Thanh Chương, Nam Đàn đã nổi lên cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đặng Như Mai.
Khi phong trào Cần Vương dấy lên, tại vùng bắc Nghệ An nổi lên cuộc khởi nghĩa Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ (1885-1889). Trong hơn 10 năm (1885-1896) nhân dân khắp Nghệ An đã hưởng ứng sôi nổi cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Cao Thắng từ Hương Khê (Hà Tĩnh) phát triển ra.
Vào đầu thế kỉ XX, cả nước ta bùng lên phong trào Đông Du và cuộc vận động Duy Tân. Người khởi xướng phong trào Đông Du là chí sĩ yêu nước kiệt xuất Phan Bội Châu. Năm 1904, ông lập Duy Tân Hội, vận động thanh niên sang Nhật du học để tìm phương kế cứu vong dân tộc. Là người tiêu biểu cho xu hướng bạo động lúc bấy giờ, Phan Bội Châu đã cùng Ngô Quảng lôi cuốn được nhiều tầng lớp nhân dân, kể cả giáo dân tham gia phong trào kháng Pháp. Văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu có sức hấp dẫn mạnh mẽ, giục giã mọi người ra tay hành động.
Phan Bội Châu, một người con ưu tú của quê hương Nghệ An, thật xứng đáng là nhân vật tiêu biểu nhất trong phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Trong khi Phan Bội Châu đang chuẩn bị thành lập Việt Nam Quang phục hội ở Trung Hoa thì người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lên tàu thuỷ đi sang phương Tây tìm con đường cứu nước. Những năm sau đó, nhiều thanh niên yêu nước xứ Nghệ đã lần lượt xuất dương sang Trại Cày Đặng Thúc Hứa ở Xiêm rồi sang Trung Hoa. Tại đây, vào năm 1924, họ đã được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ đấy, một con đường mới đầy triển vọng của cách mạng Việt Nam được hình thành, trong đó có sự đóng góp đáng kể của những người con ưu tú của quê hương Nghệ An. Khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra, nông dân đã nổi dậy phối hợp với công nhân đấu tranh chống chính quyền thực dân. Nhiều nơi ở Nghệ An đã thành lập được chính quyền Xô Viết.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử, bản sắc riêng của con người Nghệ An được hình thành ngày càng rõ nét. Dĩ nhiên, con người Xứ Nghệ phải mang đầy đủ tính cách chung của dân tộc Việt Nam. Song, do điều kiện tự nhiên ở đây có phần khắc nghiệt hơn nhiều nơi khác, con người phải thường xuyên vật lộn với thiên tai; hơn nữa vùng đất này đã từng là bãi chiến trường trong nhiều thế kỉ, vì vậy, con người luôn luôn phải lo chống trả để tự vệ và đánh đuổi giặc giã. Những đức tính đó đã hun đúc nên con người Nghệ An với các đức tính nổi bật như cương trực, khảng khái, cần kiệm, giản dị, trung thực, hiếu học, giàu nghị lực, ý chí, can đảm, dám xả thân sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn [2;23]. Vị trí địa lí và con người Nghệ An đã từng là chỗ dựa vững chắc của nhiều triều đại xưa kia và là niềm tin của cả nước của thời đại ngày nay. Không phải ngẫu nhiên mà người xưa đã nói: “Nghệ An núi cao sông sâu, phong tục trọng hậu, cảnh tươi sáng, gọi là đất có danh tiếng hơn cả Nam Châu. Người thì thuần hoà mà chăm học, sản vật thì nhiều thức quý của lạ… được khí tốt của sông núi nên sinh ra nhiều bậc danh hiền….. thực là nơi hiểm yếu như thành đồng, ao nóng của nước ta, là then khoá của các triều đại” [24;63]. Bởi vậy, sinh thời cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã nhận định: “Trong nước ta hàng ngàn năm nay, Nghệ An là nơi xây dựng cơ sở để chống giặc ngoại xâm, giữ vững nước nhà. Khi nào phía Bắc mất, người ta lại vào đây để xây dựng lực lượng, gây dựng sức mạnh, giải phóng cả nước. Do cái cơ sở vị trí truyền thống đó mà chúng ta không lấy làm ngạc nhiên ở Nghệ An đã sinh trưởng những vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc”
1.1.3. Một số dòng họ lớn ở Nghệ An
Nghệ An đi vào lịch sử với tên gọi quen thuộc “Xứ Nghệ”. Nghệ An là một cộng đồng các dòng họ. Theo tài liệu “Dân cư và xã hội Nghệ An” công bố năm 1990, cho đến nay, có 341 họ, kể cả những họ của dân tộc thiểu số và miền núi. Từng dòng họ không kể lớn nhỏ đều góp phần làm cho diện mạo văn hoá Xứ Nghệ trở nên sinh động và phong phú.
Văn hoá Xứ Nghệ bắt nguồn từ văn hoá của 341 dòng họ. Các dòng họ ở đây đã sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước, làm rạng rỡ thêm văn hoá truyền thống của Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung. Bởi vậy, ngoài văn hoá các dòng họ Hoàng Trần, Hoàng Văn, Hoàng Bá, Hoàng Sĩ, Lê Đăng… thuộc chi phái Mạc Đăng Lượng mà tôi chọn làm đề tài nghiên cứu trong luận văn này, để có cái nhìn tổng quan về văn hoá Nghệ An, chúng tôi điểm qua một số dòng họ sau:
Dòng họ Nguyễn Sinh (Kim Liên – Nam Đàn) đã tồn tại và phát triển ở Kim Liên, Nam Đàn gần 500 năm nay. Ông tổ đầu tiên từ miền Bắc vào định cư ở Nam Đàn là Nguyễn Bá Phổ (1643), đến đời thứ 7 có ba chàng trai trong đó có Nguyễn Sinh Phiên, là ông tổ của chi họ Nguyễn Sinh ở Kim Liên, chi họ đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc đời thứ 11. Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung (tức là Bác Hồ) là đời thứ 12.
Họ Hồ (Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu) là dòng họ lâu đời ở Nghệ An, được tắm mình trong cộng đồng cư dân Xứ Nghệ, với tinh thần hiếu học trong đạo lí, trọng nhân phẩm của dân Xứ Nghệ, cũng là nét đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ trạng nguyên Hồ Hưng Dật, ông tổ họ Hồ đã có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Từ Hồ Hưng Dật cho đến nay không thời nào mà không có người họ Hồ nổi danh. Đây cũng là dòng họ khoa bảng, nổi bật từ thời Hồ Tông Thốc trở về sau, đời nào cũng có người đỗ đại khoa. Họ Hồ đã có nhiều đóng góp cho lịch sử quê hương Nghệ An, lịch sử nước nhà. Dòng họ này đã sinh ra những nhân vật nổi tiếng như cha con Hồ Quý Ly, trạng nguyên Hồ Tông Thốc, tiến sĩ Hồ Sĩ Dương, nữ sĩ nổi tiếng Hồ Xuân Hương, nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu (1896-1951)…
Họ Nguyễn Sĩ (Thanh Lương – Thanh Chương): Theo gia phả dòng họ Nguyễn Sĩ lập nghiệp tại Nghệ An từ đầu thế kỉ XVI đến nay, đã có khoảng 15 đời. Con cháu có nhiều người làm nên nghiệp lớn. Trong học hành khoa cử cũng có những tấm gương tiêu biểu như ông Nguyễn Sĩ Ấn (Thanh Chương) là thầy dạy của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ Bác Hồ). Trong thập kỉ 20 của thế kỉ XX, dòng họ Nguyễn Sĩ có biết bao những người con trung kiên, ưu tú của Đảng, của cách mạng, của quê hương Hồng Lam, tiêu biểu như Nguyễn Sĩ Sách (1907-1929) và nhiều con cháu phấn đấu vươn lên trưởng thành góp sức cho đời, cho quê hương Xứ Nghệ, cho non nước Hồng Lam toả sáng.
Họ Nguyễn Đình (Nghi Lộc): Cụ tổ là Nguyễn Hợp, làm nghề muối ở Nghi Lộc. Cháu nội là Nguyễn Xí tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi từ buổi đầu tụ nghĩa và trở thành vị tướng trụ cột tài ba của cuộc khởi nghĩa. Nguyễn Xí đã tham gia chỉ huy nhiều trận đánh lừng danh trong 10 năm kháng chiến chống quân Minh (1418-1482). Triều Lê Sơ đã phong cho ông đến chức “Nhập nội Đô đốc”, “Thái sư Cương quốc công”. Dòng họ mà đến nay đã có hơn 600 năm, khoảng 25 đời cháu con đang có mặt khắp mọi miền quê, đóng góp nhiều công sức cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ quê hương, đất nước.
Nhà thờ các dòng họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương, họ Hồ ở Quỳnh Lưu, họ Nguyễn Đình ở Nghi Lộc đều được nhà nước công nhận là di tích lịch sử -văn hoá cấp quốc gia. Đó chính là ghi nhận của quốc gia đối với sự đóng góp của các dòng họ trên đất Nghệ An trong lịch sử dân tộc.
Họ Trần Hưng (Thanh Xuân, Thanh Chương): Theo gia phả dòng họ Trần Hưng ở xã Thanh Xuân huyện Thanh Chương thì nguồn gốc của dòng họ tính từ thuỷ tổ Trần Hưng Chi. Cách đây gần 500 năm, ông Chi từ xã Tuần Lễ, tổng An ấp, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh dời đến xóm Thuần Dũng, thôn Điều Lao, xã Văn Điền, tổng Bích Triều, huyện Thanh Chương. Dòng họ Trần Hưng đã có 18 đời với tất cả 41 chi, gần 6000 nhân khẩu sống đông nhất ở Thanh Chương. Thời kì phát triển rực rỡ nhất của dòng họ là thời Lê Trung Hưng. Nổi bật là đóng góp của cha con Thái Mẫu Thành Hầu Trần Văn Cảnh, Nhuận Quận công Trần Hưng Học, Trung quận công Trần Hưng Nhượng. Hai quận công đã có đóng góp cho triều đại Nhà Lê. Hai ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nhà Lê đánh bại quân Nguyễn ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Đặc biệt nghĩa binh của Trần Hưng Học và Trần Hưng Nhượng đã có công lớn trong việc thu lại 6 huyện phía Nam sông Lam và giải phóng huyện Thanh Chương. Con trai của Trung Quận Công Trần Hưng Nhượng là Thực dũng hầu Trần Hưng Chu nối nghiệp cha từ nhỏ đi theo quân ngũ đã có nhiều công lao trong việc phò Lê.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc chống Mỹ, con cháu họ Trần Hưng đã có đóng góp cho công cuộc giải phóng dân tộc. Có khoảng 320 con cháu nhập ngũ, có 44 liệt sĩ, có 3 gia đình liệt sĩ, có hơn 100 thương bệnh binh và có 2 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Sau ngày đất nước giải phóng đến nay con cháu dòng họ Trần Hưng chăm lo sản xuất phát triển kinh tế để góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Họ Đặng (Lương Điền, Thanh Chương): Theo gia phả họ Đặng ở Lương Điền thì nguồn gốc của dòng họ này từ làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu di cư vào đây khai phá rừng hoang, sinh cơ lập nghiệp, tính từ cụ thuỷ tổ Điền Trung hầu đến Đặng Thai Mai là đời thứ 10 trải qua trên 200 năm.
Dòng họ Đặng Lương Điền được sử sách biết đến nhiều kể từ khi cụ Đặng Thai Giai còn gọi là Đặng Thai Hài (ông nội của giáo sư Đặng Thai Mai) đậu cử nhân thời Tự Đức làm huấn đạo tỉnh Quảng Trị rồi tri huyện Yên Định, Thanh Hoá. Khi Pháp xâm chiếm các tỉnh xứ Trung Kỳ, ông phản đối thái độ một số quan lại đầu hàng giặc nên treo ấn từ quan về quê. Hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, ông tham gia phong trào Cần Vương và đã cộng tác tích cực với Đề Thắng, cung cấp lương thảo cho nghĩa quân nên bị Pháp bắt giam đến khi ông sắp chết mới thả. Vợ cụ Đăng Thai Giai là bà Đinh Thị Hoan là con gái quan Ngự sử Đinh Nho Điển – người đã uống thuốc độc tự tử ở Huế khi kinh thành bị giặc Pháp chiếm. Bà Hoan là người ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng yêu nước của các con. Khi Đặng Thúc Hứa từ biệt mẹ đi hoạt động cách mạng, bà dặn: “Con cứ đi đi! Khi nào lấy được nước mới về với mẹ. Chừng nào chưa làm được việc đó thì thì đừng có quay về mà nhục nghe con”. Gia đình cụ Đặng Thai Giai có bốn người con đều tích cực tham gia vào phong trào cách mạng là Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thúc Hứa, Đặng Quý Hối và Đặng Thị Quỳnh Anh.
Cụ Đặng Nguyên Cẩn (tức Thai Nhẫn, cụ thân sinh Giáo sư Đặng Thai Mai) đậu Phó bảng năm 1895 được cử làm giáo thụ Hưng Nguyên, rồi đốc học Nghệ An, đốc học Bình Thuận. Năm 1907 cùng Ngô Đức Kế lập “Tiêu Dương Tương Quán” ở Vinh. Năm 1908, thực dân Pháp khủng bố Duy Tân hội, Tiêu Dương Quán bị đóng cửa, Đặng Nguyên Cẩn bị đày đi Côn Đảo đến năm 1921 mới được thả, một năm sau thì mất.
Về nghiên cứu khoa học: Giáo sư Đặng Thai Mai (1902-1984) hậu duệ thứ 10 của dòng họ Đặng được coi là người đại diện xuất sắc nhất, sự hội tụ trong một con người ba nền văn minh. Ông đã được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho những thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu văn học. Gia đình giáo sư Đặng Thai Mai có 6 người con đều là giáo sư, tiến tĩ: Đặng Bích Hà, Đặng Thị Hạnh, Đặng Thanh Lê, Đặng Anh Đào, Đặng Thai Hoàng, Đặng Xuyến Như và có 3 người con rể đều mang hàm cấp tướng trong quân đội nhân dân Việt Nam là Võ Nguyên Giáp, Phạm Hồng Sơn, Phạm Hồng Cự.
Trải qua gần 300 năm với 13 đời con cháu, dòng họ Đặng Lương Điền đã và đang đóng góp rất nhiều trong công việc đấu tranh, xây dựng và đổi mới đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, các dòng họ trên đất Nghệ An đã cùng cộng đồng cư dân nơi đây sát cánh cùng nhau, đấu tranh kiên cường bảo vệ quê hương, làng xóm, đóng góp to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Mỗi dòng họ đều vốn có truyền thống riêng của mình, hoà quyện cùng truyền thống tốt đẹp các dòng họ khác, trở thành truyền thống quý báu của con người Xứ Nghệ, làm nên “phên dậu” của Tổ quốc qua mọi thời đại.
1.2. Quá trình phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An
1.2.1. Họ Mạc Việt Nam
Họ Mạc là một dòng họ lớn, xuất hiện khá sớm trên đất nước ta. Hiện nay có nhiều tài liệu ghi chép về họ Mạc Việt Nam, chẳng hạn như quyển Hợp biên thế phả họ Mạc, Tộc phả họ Mạc Nghệ Tĩnh đã ghi chép về họ Mạc Việt Nam: “Trong lịch sử nước ta có đến hai họ Mạc. Một là Mạc Hiển Tích, một danh thần lời Lý, trạng nguyên là Tổ năm đời của Mạc Đỉnh Chi và tổ xa đời của Mạc Đăng Dung. Vốn ở xã Lũng Động, huyện Chí Linh, Hứa Dương, nguồn gốc xa xưa ở Phiên Ngung (Quảng Đông). Hai là Mạc Cửu, sinh ra Mạc Thiên Tích, vốn là người Minh Hương ở Quảng Đông, không thuần phục nhà Mãn Thanh đã sang nước ta và được chúa Nguyễn cho trấn thủ đất Hà Tiên. Là họ có nhiều công giúp chúa Nguyễn khi chúa bị hại ở Vọng Các, có công trong việc đúc tiền, mở phố xá, tìm người dạy học, mở thị xã “ Chiêu Anh Các”, cùng các thi gia xướng hoạ. Họ Mạc này là hậu duệ của Mạc Lỗ, Mạc Đôn thộc phái thứ.
Hai họ Mạc ngày nay ở hai miền đất nước, cách nhau về không gian và cả thời gian, nhưng cùng huyết thống. Có thể khẳng định họ Mạc ở miền Bắc và miền Nam nước Việt Nam này đều xuất phát từ Trung Quốc cổ xưa thiên di sang” [8;37].
Dựa vào “Hợp biên thế phả họ Mạc” và Tộc phả họ Mạc Nghệ Tĩnh và nhiều nguồn tài liệu khác chúng ta biết được rằng, dòng họ Mạc Việt Nam phát triển, trưởng thành (kể cả thời kì thay tên đổi họ) và tồn tại đến nay đã hơn một ngàn năm. Họ Mạc vốn có tiếng là “thế gia đại tộc” như trong câu đối thờ gia tiên có câu:
“Long động văn chương quang nhật nguyệt
Cổ trai đế nghiệp tráng sơn hà”
Một dòng họ có nhiều nhân tài kiệt xuất cả văn lẫn võ từ thời Lý đến nay với những cái tên mà cả nước biết đến như Mạc Hiển Tích, Mạc Đĩnh Chi, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, Mạc Đĩnh Phúc, Mạc Đăng Triết và hậu duệ như Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Sơn, Phan Đăng Lưu, Phạm Kiệt, Dương Mạc Thạch, Mạc Thị Bưởi…
Những năm cuối thế kỉ XI, ở Lũng Động, Chí Linh, Hải Dương (nay là thông Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), Mạc Hiển Tích đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ khoa Bính Dần niên hiệu Quảng Hữu thứ hai (1086) đời nhà Lý Nhân Tông. Mạc Hiển Tích được bổ nhiệm làm Hàn lâm Viện học sĩ, sau đó ông làm đến chức Thượng thư bộ Lại. Ông đi sứ Chiêm Thành vào năm 1094. Mạc Hiển Tích là một người có biệt tài về chính trị và là một trung thần nhà Lý. Em của Mạc Hiển Tích là Mạc Kiến Quan cùng làm đến chức Thượng thư đời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) nhưng khác bộ (bộ Công), huynh đệ đồng triều thật là hiếm có [8;43].
Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272-1346) đời Trần Anh Tông (1304) không những là trạng nguyên của nước Đại Việt mà đến cả triều đình Trung Quốc cũng phải công nhận và ông trở thành “lưỡng quốc trạng nguyên” (trạng nguyên của cả hai nước). Mạc Đĩnh Chi tư chất thông minh, năm lên sáu tuổi đã ham học. Bây giờ có Chiêu Quốc Thái Công từ nhà Trần ở trường dạy học ở làng bên cạnh, ông xin mẹ cho đến nhập môn. Thấy con ít tuổi mà lại có chí, bà mẹ rất mừng. Học trò thấy đứa bé ít tuổi mà xấu xí đều chê, duy chỉ có Chiêu Quốc Công biết đứa trẻ phi thường. Không bao lâu Mạc Đĩnh Chi học vượt cả trường, nghe một biết mười, học đâu nhớ đấy, cả vùng đều cho là thần đồng. Năm Giáp Thìn niên hiệu thứ hai đời nhà Trần (1293), ông thi đậu hội nguyên. Thi vào đình, vua thấy ông tướng mạo xấu xí không muốn cho đậu trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi biết ý, nên trong bài “Ngọc tỉnh liên phú“, ông tự ví mình như cây sen trong giếng ngọc. Ông giữ ngôi tể tướng trải ba triều vua: Anh Tông (1293-1314), Minh Tông (1314-1329), Hiến Tông (1329-1341). Khi đã chiếm bảng vàng giành học vị cao nhất nước như “hoa sen giếng ngọc“, ông vẫn kiêm tốn và giản dị, không màng nhà cao cửa rộng hay lầu son gác tía, ngày đêm vẫn miệt mài đọc sách bên ngọn đèn dầu trong căn nhà gianh bé nhỏ ở cửa ô, cạnh bến sông Hồng, nên người đương thời còn gọi là xứ ông Mạc, bến ông Mạc. Làm quan bao nhiêu năm, công trạng rất nhiều nhưng đến lúc về già thôi làm quan ông chỉ có nếp từ đường (nay hãy còn). Lúc thong dong, ông thường ra ngồi nơi quán lá ngoài đồng, uống bát nước vối, chuyện trò thân mật với dân làng. Là một vị tể tướng vào hàng cực phẩm nhưng ông sống thanh bạch giản dị không khác gì dân quê. Ông cống hiến trọn đời mình cho nước, cho dân, đối nội thì chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho dân (đắp đê Chương Mỹ, phát chẩn trợ cấp cho dân vùng lụt lội, mở rộng quy mô chùa Dâu ở Thuận Thành….), đối ngoại thì đi sứ nhà Nguyên “Đề thơ vịnh quạt Cao Ly Khiếp, bắt sẻ vạch ngu tể tướng đành….“. Ông đã làm tăng quốc thể, mở ra cho triều đình nhà Nguyên thấy một nước Đại Việt văn minh chứ không phải như họ tưởng Man di mà khinh thị.
Mạc Đĩnh Chi là ngôi sao toả sáng bầu trời Trung – Việt mãi mãi ngời sáng trong dòng họ Mạc Việt Nam. Các thế hệ sau và sau nữa của người vẫn thắm đượm, gìn giữ và phát huy trong mọi lúc, mọi nơi cho mãi muôn đời sau. Mạc Đăng Dung ở Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thuỷ, Hải Phòng), cháu bảy đời của Mạc Đĩnh Chi đã mở ra vương triều Mạc từ 1527 đến năm 1592. Trong vòng hơn nửa thế kỉ, vương triều Mạc đã để lại dấu ấn khá đậm nét trong lịch sử trung đại Việt Nam. Viện sử học Việt Nam từng đánh giá: “Nhà Mạc và thời đại Mạc được đánh dấu một sự chuyển tiếp quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước ta thế kỉ XVI”.
Sau năm 1592, khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long thì một chiến dịch truy sát họ Mạc đã diễn ra. Trong “Đại Việt thông sử”, Lê Quý Đôn ghi: “Bình An Vương (Trịnh Tùng) giết hết bọn nguỵ đảng đem quân phá hết cung điện ở Cổ Trai, huỷ bia mộ, chặt hết cây trồng trong làng đó là tỏ ra truy phát vậy“. Họ Trịnh đã hành hình Mạc Hồng Vinh rất tàn nhẫn, đưa ra phía Nam cửa doanh xử lăng trì (dùng voi xé xác) đóng đinh vào mắt, chặt và bêu đầu rồi đem thủ cấp hiến Hoàng ở hành Tài Vận hai xứ Thanh Hoá [52,3]. Để xoá bỏ đối thủ của mình, vừa uy hiếp con cháu họ Mạc để làm tiêu tan ý chí phục thù rửa hận, vừa tránh cái hậu hoạ về sau, chúa Trịnh đã giết hơn 60 người họ Mạc, thây chết đầy bờ cát… tạo ra bầu không khí nặng nề ghê sợ, khiến có những Thân Vương nhà Mạc tin rằng đại cục không cứu vãn được đã tự sát. Sự trấn áp, truy bức của họ Trịnh đã dẫn tới nơi này xưng Vương, nơi khác khởi loạn (Mạc Kính Chỉ ở Đông Triều, Mạc Kính Cung ở Văn Châu, Mạc Kính Chương ở An Quảng, Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng….). Con cháu họ hàng nhà Mạc phải li tán, mai danh ẩn tích ở nhiều vùng, nhiều vùng đất lạ, đổi thành nhiều họ hoặc theo họ mẹ, hoặc theo họ bố nuôi hoặc theo họ của địa phương cư trú, hoặc theo điều kiện sinh hoạt “thời thay thế đổi, đất lật trời nghiêng, ngôi Lê khôi phục vận Mạc đổi đời, là Hoàng, là Thái, là Tô hoặc đổi họ thay tên, ẩn mình theo mẹ…” [60;5].
Vào thế kỉ XVII, ở Quất Động, Thường Tín, Hà Tây có Lê Công Hành vốn người họ Mạc đổi sang họ Trần. Lê Công Hành là tên do vua ban cho quốc tính. Ông có tên là Quốc Khái, mẹ ông là họ Bùi, nên ghi tên ông theo họ mẹ. Ông đỗ Tiến sĩ đời vua Lê Chân Tông (1643-1649), đi sứ sang Trung Quốc năm 1646, cũng làm vẻ vang quốc thể. Mặc dù bị giam đói, bỏ khát trên lầu cao nhưng ông vẫn sống, ghì chặt cán lọng vào người và nhảy từ lầu cao xuống đất, khiến bọn lính canh gác khâm phục reo to “sứ thần Việt Nam biết bay“. Về nước ông đem nghề thêu dạy cho dân và trở thành ông tổ nghề thêu và nghề làm lọng của nước Việt Nam từ đấy.
Khi Pháp chiếm toàn bộ Việt Nam (1883), triều đình Nguyễn vẫn lún sâu vào con đường phản bội thì Hoàng Diệu, theo gia phả Kinh Môn, Hải Hưng, ông gốc họ Mạc là Đại thần triều Tự Đức, được cử làm tổng đốc tỉnh Hà Nội. Trước thế giặc quá mạnh, thêm nữa sự ươn hèn của triều đình và một số tướng dưới quyền… Hoàng Diệu vẫn kiên quyết chủ chiến, kéo dài được hơn nửa ngày, giặc hạ được thành. Tổng đốc Hoàng Diệu không thể làm gì được hơn vì trước kia triều đình không cho tăng cường binh lực phòng bị Hà Nội, ông đành tuẫn tiết, sau khi lấy máu viết lời di biểu gửi triều đình.
Phạm Hồng Thái là liệt sĩ cách mạng hi sinh ở Quảng Châu, Trung Quốc mà báo chí với những đề lớn: “Một vụ ám sát kinh thiên động địa“, “tiếng tạc đạn của Đảng cách mạng Việt Nam“. Ông quê ở Nghệ An (theo gia phả cũng từ họ Mạc đổi sang họ Phạm khi di cư vào xứ nghệ). Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Sơn được Tâm Tâm xã giao nhiệm vụ trừng trị viên toàn quyền thực dân gian ác chống phá cách mạng Việt Nam. Anh giả danh nhà báo vào được khách sạn Victoria ở khu vực Sa Diện là nơi Pháp kiều mở tiệc chiêu đãi Merlin. Anh ném mạnh một tạc đạn làm chết 4 sĩ quan Pháp, một số bị thương trong đó có Merlin. Cảnh sát và binh lính đuổi bắt, anh bắn trả, khi hết đạn phải nhảy xuống sông Châu Giang. Chính phủ của bác sĩ Tôn Dật Tiên đã cho vớt thi hài anh lên an táng tại nghĩa trang đồi Hoàng Hoa nơi chôn 72 liệt sĩ Trung Quốc. Nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Sống chết được như anh
Thù giặc thương nước mình
Sống làm quả bom nổ
Chết như dòng nước xanh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tìm ra chân lí sáng ngời : “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác bằng con đường cách mạng vô sản“. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người sáng lập ra Đảng để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh cách mạng. Trong đội ngũ hoạt động cách mạng đầu tiên do Bác giáo dục rèn luyện, có Phan Đăng Lưu, anh quê ở Nghệ Tĩnh, là thế hệ thứ 14 của Phan Huyền Nhai, phái hệ Mạc Mậu Giang hiệu Ngũ Phương (Đỗ Hoàng Giáp, Thượng thư bộ Lại và bộ Binh đời Mạc). Anh sớm giác ngộ cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của dân tộc ta lên trên hết. Là uỷ viên Ban Chấp hành Đảng cộng sản Đông Dương, khi bị Pháp bắt tra tấn dã man anh vẫn giữ trọn khí tiết của người cộng sản kiên cường bất khuất. Trong lá thư gửi cho con, anh viết : “Dù sao đi chăng nữa, cha vẫn chấp nhận một cách thanh thản số phận đã dành cho cha và có đủ nghị lực chịu đựng mọi đau thương“.
Tháng 3 năm 1929, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương ở 312 Khâm Thiên, Hà Nội có Lều Thọ Nam. Lều Thọ Nam quê ở Nhị Khê, Thường Tín (Hà Tây), họ Lều cũng là nguồn gốc họ Mạc đổi sang vào thế kỉ XVI. Lều Thọ Nam cùng Đinh Xuân Nhạ, Đặng Xuân Khu, Giang Đức Cường, Hoàng Ngọc Báo… bị bắt (1930) vì phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Hà Nội những năm 1929-1930 sôi sục, là thành uỷ viên lâm thời Hà Nội. Lều Thọ Nam phụ trách học sinh, Đặng Xuân Khu phụ trách sinh viên, binh lính… Ông chủ trương vô sản hoá đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, ông từng chỉ đạo Nông hội đỏ ở Hoài Đức, bị toà án Hà Đông kết án vắng mặt 10 năm khổ sai và 10 năm quản thúc. Năm 1930 bị đày ra Côn Đảo, năm 1934 trong một cuộc vượt ngục đồng chí đã hi sinh.
Ở Thái Bình có Bùi Đăng Sắc, Bùi Đăng Phùng, Bùi Đăng Thi. Họ Bùi nguyên từ họ Mạc chuyển sang như nhiều họ khác. Bùi Đăng Sắc được kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng chí hội (1928) phụ trách thanh niên thị xã Thái Bình, phụ trách đường dây liên lạc tỉnh Đảng bộ. Bị thực dân Pháp bắt kết án một năm tù và đưa về quản chế ở quê hương. Ông lên Hà Nội hoạt động gây cơ sở ở Chương Mỹ, Hà Đông lại bị bắt trục xuất khỏi Hà Nội, lại về hoạt động ở Thái Bình. Năm 1935, ông cùng em Bùi Đăng Chi quản lý chính trị, kinh tế của tờ báo “Đời nay“, tập hợp lôi kéo trí thức, tư sản, nhân sĩ tiến bộ vào mặt trận dân chủ Đông Dương. Bùi Dăng Phùng tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1939, hoạt động trong phong trào thợ thuyền ở tỉnh Trà Vinh, bị địch bắt giam và tra tấn dã man, đã hi sinh tại cầu Long Bình ngày 25 tháng 12 năm 1945, là liệt sĩ cách mạng.
Anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi, huân chương Quân công hạng hai, 24 tuổi, chị đã hiến mình cho cách mạng, giữ vẹn toàn khí tiết của một đảng viên. Là cán bộ phụ nữ, chị luôn luôn tin quần chúng, dựa vào quần chúng, hoà mình vào quần chúng, kiên trì thuyết phục, giáo dục vận động quần chúng. Đó là những đặc điểm trong phẩm chất, đạo đức của chị. Lọt vào tay địch, đứng trước một thử thách nghiêm trọng nhất, một bên là cái sống đầu hàng, một bên là cái chết để bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở, bảo vệ nhân dân, chị sẵn sàng và bình tĩnh chọn cách thứ hai. Trước phút chót của cuộc đời, Mạc Thị Bưởi còn tìm kế chủ động tiến công kẻ thù lần cuối. Mọi âm mưu đen tối, những cực hình cùng những thủ đoạn dụ dỗ của địch không khuất phục nổi chị, ngược lại khí phách anh hùng của chị đã làm kẻ địch bàng hoàng run sợ.
Anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi là thể hiện tập trung cao đẹp nhất về lòng yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc, lòng tin tưởng và tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Cho đến nay, những chi họ gốc Mạc khá đông đảo, phân tán từ Bắc chí Nam, từ một họ Mạc đổi ra 37 họ với 368 chi ở 25 tỉnh, thành [8,25]. Các chi họ gốc Mạc với một niềm tin rằng sẽ có một ngày mọi việc tốt đẹp như ban đầu:
“Tứ bách niên tiền chung phục thuỷ
Thập tam thế hậu dị nhi đồng”
Nhờ có sự chiến đấu và đấu tranh bền bỉ như thế của hàng muôn vạn người cùng tâm trí, đúng 400 năm sau ngày Mạc Mậu Hợp bị giết, họ Mạc thất thủ ở kinh đô (1592-1992) mới có sự liên lạc của 368 chi họ “dị nhi đồng”.
Ở Nghệ An, khắp ở các huyện, xã trong tỉnh đều có các họ gốc Mạc. Chi phái Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An bao gồm họ Hoàng Trần, Hoàng Văn, Hoàng Sĩ, Hoàng Bá ở Đô Lương và họ Lê Đăng ở Nam Đàn, Thanh Chương, Nghi Lộc và là một chi phái gồm 8 chi trong họ Mạc Việt Nam.
1.2.2. Phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An.
Theo cuốn “Tộc phả họ Mạc Nghệ Tĩnh” được biên soạn vào năm 1979, do các ông Phan Xuân Thuý, Phan Đăng Diêu, Phan Đăng Ngạn… biên tập dựa trên tư liệu chữ Hán Nôm còn cất giữ được, thu thập thêm ở các chi họ và có tham khảo đối chiếu với một số cuốn sử thì, từ năm 1592, sau khi thành Thăng Long bị mất về tay họ Trịnh, con cháu họ Mạc còn chiếm cứ nhiều nơi và cố thủ ở Cao Bằng cho đến những năm 70 của thế kỉ XVII. Trong bước đường thất thế và trước nguy cơ bị tiêu diệt, con cháu họ Mạc phải phân tán khắp nơi, đổi họ thay tên ẩn mình lánh nạn. Con cháu họ Mạc chạy vào đất Nghệ An có nhiều chi phái nhưng ngày nay mới biết có 5 phái hệ chính:
Phái hệ Phó quốc vương, Tước minh nghĩa Đại vương Mạc Đăng Lượng, tức Hoàng Đăng Quang.
Phái hệ Thế tử Mạc Mậu Giang (con vua Mạc Phúc Nguyên và bà Đặng Thị Xuân).
Phái hệ Thế tử Mạc Đăng Bình (con vua Mạc Phúc Nguyên và bà Đặng Thị Xuân).
Phái hệ thuộc hậu duệ Mạc Kính Vĩ.
Phái hệ Mạc Đăng Khuê từ Thanh Hoá và các tỉnh ngoài Bắc chạy vào.
Đến nay tại Nghệ An đã có 186 chi mang 10 dòng họ gốc Mạc thuộc hầu hết tất cả các huyện, thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò [11;42].
Theo cuốn “Hợp biên thế phả họ Mạc” của nhà xuất bản Văn hoá dân tộc 2001 thì Mạc Đăng Lượng là cháu đời thứ 11 của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (là bậc chú của Thái tổ Mạc Đăng Dung). Ông là con trưởng của cụ Mạc Đăng Trắc và cụ bà là Đậu Thị Minh. Ông sinh năm 1496 tại Lũng Động, Chí Linh, Hải Dương.
Mạc Đăng Lượng tư chất thông minh, từ nhỏ đã có ý rất ham học, học giỏi. Ông được mọi người yêu quý. Năm ông 17 tuổi, thi đậu Tiến sĩ, làm quan dưới triều hậu Lê và được triều đình Lê phong tước Quốc Công. Dưới triều Mạc, ông có công lập nhiều chiến công hiển hách nên được phong Phó Quốc Vương [8; 137].
Năm 1531, Mạc Đăng Lượng vâng lệnh vua Thái Tông Mạc Đăng Doanh vào trấn thủ Hoan Châu (Nghệ An), đóng bản doanh ở vùng Đô Đặng, huyện Nam Đường, tướng tá thuộc hạ trên một vạn người.
Nhân dân ở đây vui mừng phấn khởi, từ đây được hưởng không khí thái bình, yên tâm làm ăn cày cấy. Ông có công chiêu dân lập ấp, được 137 hộ tổng Đặng Sơn (bao gồm 3 xã Bắc Sơn, Nam Sơn, Đặng Sơn ngày nay). Mười bốn năm trấn thủ Hoan Châu, ông xây dựng nơi đây thành một vùng trú phú, lương thực đầy đủ, đời sống nhân dân đỡ phần cơ cực bần hàn.
Sau năm 1592, gặp nạn dòng họ suy vi, vua Mậu Hợp bị thất thủ ở Thăng Long, Trịnh Tùng vào chiếm kinh đô Thăng Long. Dòng họ Mạc bị tru di, tắm máu cực hình, bắt buộc ông phải đổi họ ẩn mình thay tên. Mạc Đăng Lượng đổi tên Lê Đăng Hiền (1592-1599), sau đó đổi Hoàng Đăng Quang (1599-1604). Trước ông ẩn ở Thạch Thành, Thanh Hoá sau di chuyển vào huyện Nam Đường ẩn dật chiêu dân lập ấp, dạy học và bốc thuốc bắc chữa bệnh cứu người. Và trong gia phả có ghi:
“Thanh Tiền miêu duệ Lê truyền chỉ
Hậu Nghệ tử tôn Phái tộc thừa”
Có nghĩa là: cải họ Mạc thành họ Lê ở Thanh Hoá. Các đời con cháu về sau sống tại làng Nho Phái tỉnh Nghệ An.
Suốt cuộc đời Mạc Đăng Lượng có một mong muốn là nước nhà được bình yên không loạn lạc, không binh đao, nhân dân được ấm no hạnh phúc. Ước muốn không thành vận nước suy đồi, ông luôn than thở với các bậc con cháu:
“Trung thần bất sự nhi quân
Trinh nữ bất canh nhi phụ”
Nghĩa là: Bề tôi trung thành không thờ hai vua khác họ và trinh nữ không thờ hai chồng.
Trước lúc qua đời, ông còn dặn con cháu: Ngày tế cụ nên làm xôi đỗ đen để tỏ lòng trung thành của ông đối với non sông đất nước. Ngày nay con cháu khi tế lễ đã làm xôi đỗ đen để tỏ lòng thành kính đối với cụ. Phó Quốc vương Mạc Đăng Lượng hưởng thọ 108 tuổi, vợ là Mai Thị Huệ, hậu duệ Mai Hắc Đế, thọ 92 tuổi. Phần mộ của hai ông bà đều táng tại núi Đại Huệ, huyện Nam Đàn [21; 2].
Mạc Đăng Lượng có công giúp dân, giúp nước nên được nhân dân lập đền thờ ghi nhớ công đức, tôn thờ ông làm thành hoàng, nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi. Đền thờ chính của Phó quốc vương Mạc Đăng Lượng nằm trên núi Tán Sơn (Đền Tán Sơn) thuộc xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Năm 1788, vua Quang Trung kéo đại binh từ Phú Xuân ra Bắc đại phá 29 vạn quân Thanh đã dừng chân nghỉ ở núi Đại Huệ. Vua đã đến đền Tán Sơn cầu thần linh phù hộ. Quang Trung vừa cho tuyển thêm quân sĩ của các vùng xung quanh, vừa thanh thủ luyện tập võ nghệ cho quân sĩ [64].
Cuối năm 1788, theo thể nguyện vọng của nhân dân Tổng Đặng Lâm, vua Quang Trung đã xét công đức đối với nước, đối với dân của cụ Mạc Đăng Lượng. Nhà vua vô cùng cảm phục sự tài ba lỗi lạc của đại tướng quân Mạc Đăng Lượng, đã truy phong ông “tự cát giang tử, đăng tiên Đô Miếu, bao phong phù cát hồng du, gia phong anh dũng thành Hoàng thượng thượng thượng đặng thần“. Có nghĩa là: “Ta đây triều vua trước có ý định, nay cho dựng tại đền trên Đô Đặng (Đặng Sơn) lấy tên là Tiên Đô, gia phong anh dũng thần với ba bậc thượng đẳng”. Đền còn lưu lại câu đối:
“Trúc duẩn tái sinh thiên cổ miếu
Nam Đường di ái ức nên từ”
Có nghĩa: trúc mọc lại ở miếu xưa, tình cảm ấy từ Nam Đàn chuyển lên để vạn năm thờ.
Mãi về sau, triều đình nhà Nguyễn mới thấy sự oan trái của Nhà Mạc và công lao của Phó quốc vương Mạc Đăng Lượng. Năm Quý Mùi (Tự Đức thứ 8 năm 1855), ông được phong thượng đẳng thần. Năm Thành Thái thứ bảy (năm 1894) ông được phong thượng thượng đẳng thần. Năm Bảo Đại thứ 8 (1944), ông được phong thượng thượng thượng đẳng thần, thờ tại nhà thờ Đặng Sơn Đô Lương.
Phó Quốc vương Mạc Đăng Lượng có duệ hiệu đầy đủ là: Tiền triều Hoàng đại tướng, Tam giáp Tiến sĩ tước Quốc công, Mạc triều Phó Quốc vương, gia phong Thái Quốc công, tặng Hiển Công vương gia tặng Minh nghĩa Đại vương, tự cát giang tử, đẳng tiên đô miếu, thần quang linh ứng, bao phong phù cách hồng du, gia phong anh dũng Thành Hoàng thượng thượng thượng đẳng thần [8; 137].
Duệ hiệu của Mai Thị Huệ là: Trai thực thiệu tín đoan trang anh linh, tịnh chính diệu hoá trang, húy Mai Thị Huệ thượng thượng đẳng thần [8; 137].
Theo phả tộc họ Hoàng Trần ở Đặng Sơn và họ Lê Đăng ở xã Xuân Hoà thì, Phó Quốc vương Mạc Đăng Lượng sinh được 8 người con. Tám người con của ông đều học hành thành đạt nhưng vì hoạ tru di tam tộc cho nên việc tu dưỡng thành người tài giúp ích cho xã hội gặp nhiều khó khăn. Sau đó, tám người con của ông sống ở 8 nơi thuộc địa bàn 4 huyện Nam Đàn, Đô Lương, Thanh Chương, Nghi Lộc (ngày nay) và phát triển thành 8 chi chia thành 2 họ:
Ông Hoàng Đăng Lưu, tự Pháp Lưu, thuỷ tổ chi họ Hoàng Trần, lập từ đường ở làng Đặng Lâm, xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Từ đường họ Hoàng Trần đã được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử.
Ông Hoàng Đăng Đạo, tự Nhã Đạo, thuỷ tổ chi họ Hoàng Văn, lập từ đường ở làng Lương Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Dưới triều Lê, ông có sắc phong Đô chỉ huy sứ kiêm lộc hầu.
Ông Hoàng Đăng Kỳ, tự Bá Kỳ, thuỷ tổ chi họ Hoàng Bá, lập từ đường ở làng Khả Phong, xã Nam Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Ông Hoàng Đăng Ngọc, tự Kim Ngọc, thuỷ tổ họ Hoàng Sĩ, lập từ đường ở làng Yên Phú, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Ông Hoàng Đăng Thuật, tự Phúc Diện, thuỷ tổ chi họ Hoàng Văn ở xã Nam Lạc, huyện Nam Đàn. Một bộ phận di chuyển đến làng Phật Kệ, xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Ông Lê Đăng Lương cùng gia đình ẩn tích lánh nạn ở huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá và lập chi ở đây. Về sau, người con trưởng của ông là Lê Đăng Thiện cùng thân mẫu là thị Nghĩa và hai chú ruột chuyển vào làng Nho Phái, huyện Nam Đường và lập từ đường ở đây. Đền Tán Sơn đã được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Ông Lê Đăng Tưởng là thuỷ tổ chi họ Lê Đăng. trước ở làng Nho Phái rồi sau tản đến làng Tuỵ Anh, xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Ông Lê Đăng Thân là thuỷ tổ chi họ Lê Đăng, trước ở làng Nho Phái rồi sau tản đến làng Di Luân, xã Thanh Luân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An [8; 346].
Tám chi họ thuộc triệu tổ Mạc Đăng Lượng tuy xa cách nhau nhưng tình cảm thân tộc luôn luôn đoàn kết, gắn bó với nhau, cùng nhau xây dựng đất nước. Đến nay, 8 chi họ có khoảng 1500 hộ và dân số 6000 nhân khẩu.
Như vậy, bên cạnh các dòng họ lớn ở Nghệ An thì phái hệ Phó Quốc vương Mạc Đăng Lượng gồm họ Hoàng và họ Lê cũng đã đóng góp một phần sức mình để xây dựng quê hương Nghệ An ngày càng phát triển.
1.2.3. Sự phát triển của phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An.
Kể từ ông Mạc Đăng Lượng, thuỷ tổ họ Mạc Nghệ An đến nay trải qua gần 500 năm tồn tại và phát triển với 15 đời con cháu, phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An đã lan toả ra nhiều huyện trong tỉnh và các tỉnh thành trong cả nước. Theo những bản gia phả còn lưu lại tại các nhà thờ chúng ta biết được phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An đã hình thành và phát triển qua các địa điểm và các đời như sau:
Mạc Đăng Lượng có 4 người con ở Đô Lương, sau này chia thành 4 chi như sau:
(1) Hoàng Đăng Lưu, tự Pháp Lưu, thuỷ tổ chi họ Hoàng Trần, lập từ đường ở làng Đặng Lâm, xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
(2) Hoàng Đăng Đạo, tự Nhã Đạo, thuỷ tổ chi họ Hoàng Văn, lập từ đường ở làng Lương Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
(3) Hoàng Đăng Kỳ, tự Bá Kỳ, thuỷ tổ chi họ Hoàng Bá, lập từ đường ở làng Khả Phong, xã Nam Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
(4) Hoàng Đăng Ngọc, tự Kim Ngọc, thuỷ tổ chi họ Hoàng Sĩ, lập từ đường ở làng Yên Phú, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Đô Lương đổi thành họ Hoàng gồm 4 chi thì ở đây lấy đại diện chi trưởng ở Đặng Sơn. Thuỷ tổ chi họ Hoàng Trần ở Đặng Lâm, xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương thuỷ tổ là ông Hoàng Đăng Lưu, tự Pháp Lưu.
Theo gia phả dòng họ Hoàng Trần ở Đặng Sơn thì đời thứ nhất tính từ ông tổ Mạc Đăng Lượng. Mạc Đăng Lượng là con cụ Mạc Đăng Trắc và cụ Đậu Thị Minh, là cháu 11 đời cụ Mạc Đỉnh Chi. Ông thi đậu Nhất giáp Tiến sĩ năm 17 tuổi, đậu Tam giáp Tiến sĩ năm 25 tuổi. Ông làm quan thời Hậu Lê, được phong tước Quốc công minh nghĩa đại vương. Đến triều nhà Mạc, ông lại được phong là Phó Quốc vương. Ông nhiều lần cùng các tướng Mạc Kính Điển, Mạc Ngọc Liễn, Mạc Đôn Nhượng, Nguyễn Quyện đem quân vào Thanh Hoá đánh quân Trịnh.
Năm 1592, thành Thăng Long mất, ông tổ Mạc Đăng Lương đổi thành Hoàng Đăng Quang và Lê Đăng Hiền. Ông tổ thọ 108 tuổi.
Đời 2: Thuỷ tổ là ông Hoàng Pháp Lưu (Hoàng Đăng Lưu), là con cả thần tổ Hoàng Đăng Quang và bà Mai Thị Huệ. Gặp lúc nhà Mạc suy vi, ông phải sống mai danh ẩn tích nên mặc dầu đã đậu hiệu sinh vẫn không ra làm quan mà theo đạo Phật hiệu là Sa tăng thiền sư. Tổ Hoàng Pháp Lưu sinh được 5 người con trai là: con cả Hoàng Phúc Hạnh, con thứ Hoàng Huệ Khánh, Hoàng Huệ Lịch, Hoàng Phúc Thành, Hoàng Đăng Thưởng.
Đời 3: Tổ là Hoàng Phúc Thành có 2 vợ: vợ cả người họ Lê, vợ thứ người họ Nguyễn. Vợ thứ sinh được một trai là Hoàng Đăng Triệt.
Đời 4: Tổ là Hoàng Đăng Triệt, vợ là Bùi Thị Toản. Tổ Hoàng Đăng Triệt làm quan Lang trung thời Hậu Lê, vợ chồng không có con nên có nuôi một người con nuôi là Trần Ích làm con tự. Kể từ đây họ Hoàng thêm chữ lót là Trần thành họ Hoàng Trần.
Đời 5. Tổ Hoàng Trần Ích đậu hiệu sinh (cử nhân), được bổ nhiệm tri phủ Hoài Nhân, sau trở thành lãnh tụ Cần Vương, giữ chức Tham tán đại thần binh Nhung đại tướng, có công đánh giặc và phò tá vua Hàm Nghi đánh Pháp. Tổ Hoàng Trần Ích có 2 vợ: vợ đầu là Nguyễn Thị Bồi sinh được 5 trai 3 giái. Con trai đầu là Hoàng Bá Nghi, còn 4 người con trai còn lại chết sớm. Con gái là Hoàng Thị Diễn, Hoàng Thị Huy, Hoàng Thị Tuỳ. Bà thứ hai là Phạm Thị Tịnh, sinh được 3 trai 2 gái. Con trai đầu là Hoàng Đăng Tam, Hoàng Đăng Thai, Hoàng Đăng Thưởng.
Đời 6: Hoàng Bá Nghi thường gọi là Can Thiếu, thi đậu Phó bảng, làm tới chức Thiếu khanh, vợ là Nguyễn Thị Duyên. Hoàng Bá Nghi sinh được 2 trai 5 gái. Con trai đầu là Hoàng Bá Khản, Hoàng Đăng Trọng. Con gái là Hoàng Thị Niêm, Hoàng Thị Nhuận, Hoàng Thị Niệm, Hoàng Thị Thanh, Hoàng Thị Khang.
Đời 7: Hoàng Bá Khản, huý biểu chức nhiêu nam đại lao quốc thụ thọ 92 tuổi. Ông có 5 bà vợ. Từ đây dòng họ Hoàng con cháu ngày càng đông, sinh sôi nảy nở nhiều hơn. Vợ đầu của ông Hoàng Bá Khản là Bùi Thị Buôi sinh được 3 người con trai và 4 người con gái: Hoàng Đăng Hưu, Hoàng Đăng Khoa, Hoàng Trần Thịnh, Hoàng Thị Bản, Hoàng Thị Sử, Hoàng Thị Thiềm, Hoàng Thị Quảng. Bà vợ thứ hai là Nguyễn Thị Hán sinh được 2 trai, 2 gái: Hoàng Tự Quán, Hoàng Trần Cồn, Hoàng Thị Mện, Hoàng Thị Ngông. Bà vợ thứ ba là Nguyễn Thị Hiền sinh được 1 trai 1 gái: Hoàng Danh Toại, Hoàng Thị Uy. Bà vợ thứ 4 là Hoàng Thị Hy sinh được 1 con gái Hoàng Thị Mun. Bà vợ cuối cùng là Hoàng Thị Tam sinh được 1 người con trai, 4 người con cái: Hoàng Kim Chưởng, Hoàng Thị Tứ, Hoàng Thị Chứ, Hoàng Thị Chữ, Hoàng Thị Thự.
Đời 8: Đại diện là Hoàng Kim Chưởng, tức Chinh, ông thọ 87 tuổi được ân tứ thọ dân, ông là một danh y nổi tiếng. Ông có 2 bà vợ. Vợ đầu là Bùi Thị Tường sinh được 3 người con trai và 3 người con gái: Hoàng Viết Vĩnh, Hoàng Văn Trợ, Hoàng Văn Phồng, Hoàng Thị Lung, Hoàng Thị Đoàn, Hoàng Thị Tràng. Vợ thứ hai là Hoàng Thị Quý sinh được 1 người con gái Hoàng Thị Xin (chết sớm).
Đời 9: Đại diện là ông Hoàng Trần Quýnh tức Tước. Ông học chữ nho đậu nhất trường làm chánh tổng. Vợ ông là Nguyễn Thị Đào sinh được 4 người con trai và 4 người con gái: Hoàng Trần Siêu, Hoàng Trần Duật, Hoàng Trần Nhiệu (chết sớm), Hoàng Trần Đời, Hoàng Thị Tiêu, Hoàng Thị Bá, Hoàng Thị Căn (chết sớm), Hoàng Thị Cơ.
Đời 10: Đại diện là ông Hoàng Trần Siêu (1861-1949). Ông học giỏi chữ nho đậu tú tài. Ông dạy học được triều đình thưởng Hàn Lâm cung phụng. Ông có hai bà vợ. Vợ thứ nhất là Nguyễn Thị Lơng, chết lúc chưa có con. Bà vợ thứ hai là Nguyễn Thị Mỹ, sinh được 2 người con gái: Hoàng Thị Bổng, Hoàng Thị Ngưỡng. Bà vợ thứ ba của ông là Phan Thị Nhàn sinh được 3 người con trai và 3 người con gái: Hoàng Thị Phang, Hoàng Thị Phu, Hoàng Trần Củng, Hoàng Thị Phò, Hoàng Trần Trực, Hoàng Trần Trĩ (chết sớm).
Kể từ đời thứ 10 trở đi, dòng họ Hoàng Trần xuất hiện nhiều người hoạt động cách mạng và có nhiều con cháu đậu đạt hơn. Từ đây, dòng họ Hoàng Trần mang một sắc mới, bộ mặt mới.
Đời 11: Lấy đại diện Hoàng Trần Trực là con thứ của Hoàng Trần Siêu. Ông học Pháp văn giỏi và có bằng Thành chung. Vợ ông là Nguyễn Thị Đạm sinh được 3 người con trai và 3 người con gái: Hoàng Thị Sinh, Hoàng Trần Cương, Hoàng Thị Minh, Hoàng Trần Hoà, Hoàng Trần Đồng, Hoàng Thị Kim Hoa (chết sớm).
Đời 12: Đại diện Hoàng Trần Ky con ông Hoàng Trần Cẩm (đảng viên) vợ là Lê Thị Hà sinh được 2 người con trai và 1 người con gái: Hoàng Trần Trung, Hoàng Trần Hiếu, Hoàng Thị Thu Thảo.
Đời 13: Tộc trưởng là Hoàng Trần Công. Vợ ông là Lê Thị Hồng sinh được 5 người con: Hoàng Thị Hằng, Hoàng Thị Hai, Hoàng Thị Hường, Hoàng Quốc Cường, Hoàng Quốc Quyền.
Như vậy với gần 500 năm lịch sử, trải qua 13 đời con cháu, dòng họ Hoàng Trần thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Đặng Sơn ngày càng phát triển, con cháu họ đã toả đi sinh sống ở nhiều vùng miền trong cả nước, ở đâu làm gì họ đều hướng về quê hương đất tổ.
Ở Nam Đàn phái hệ Mạc Đăng Lượng bao gồm có 2 người con và nay trở thành 2 chi. Một chi đổi thành họ Hoàng và một chi đổi thành họ Lê Đăng. Người con Lê Đăng Lương hiện nay trở thành chi họ ở làng Nho Phái xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn. Hoàng Đăng Thuật, tự Phúc Diện thuỷ tổ chi ở Nam Lạc nay trở thành một chi ở Nam Lạc, Nam Đàn. Nam Đàn bao gồm có 2 chi thì lấy đại diện là chi ở Xuân Hoà, chi này hiện nay có đền Tán Sơn thờ ông Mạc Đăng Lượng.
Theo tộc phả họ Lê Đăng ở làng Nho Phái, xã Xuân Hoà thì họ Mạc đổi thành họ Lê Đăng:
“Tổ triệu tên bồi thiên tải viện
Mạc thuỳ Lê phái ức viên trường”
Tạm dịch: Tổ gây nên dòng dõi ngàn thủa còn đây Mạc đổi sang Lê muôn năm tồn tại.
Trong tộc phả họ Lê Đăng ở làng Nho Phái, xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn, thì:
Đời 1: Mạc Đăng Lượng có 8 người con thì người con Lê Đăng Lương về làng Nho Phái, xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn.
Đời 2: Lê Đăng Lương, vợ Thị Nghĩa, con trai trưởng là Lê Đăng Thiện.
Đời 3: Lê Đăng Thiện có tên huý: Lê Đăng Quế. Cụ can phủ Lê Đăng Quế khi về nghỉ hưu tuổi đã gần 70 mà hai ông bà chưa có con. Lúc bấy giờ có một bà còn trẻ quê ở Đồng Nai – Gia Định chạy loạn ra đây xin ở nhờ, sau kết duyên cùng ông, sinh được ba người con, 2 trai, 1 gái: Lê Đăng Phú, Lê Đăng Quý, Lê Thị Tích.
Đời 4: Lê Đăng Quý con thứ ba của Can phủ Lê Đăng Quế, vợ người họ Trần sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái: Lê Đăng Quỳ, Lê Đăng Lâm, Lê Đăng Minh, hai người con gái tộc phả không ghi tên.
Từ đây, tộc phả họ Lê Đăng chia thành 3 chi:
Chi 1:
Đời 1: Lê Đăng Quỳ (thường gọi cố Tri). Con trai đầu ông Lê Đăng Quý. Ông có 2 bà vợ. Bà chính thất người họ Lê, bà thứ thất tên huý là Nguyễn Thị Ván là con gái tiến sĩ Nguyễn Đình Bá. Cả hai bà sinh được 5 người con trai: Lê Đăng Cát, Lê Đăng Hội, Lê Đăng Quỵ, Lê Đăng Thung, Lê Đăng Lư.
Đời 2: Lê Đăng Cát (thường gọi cố Cai) là con trưởng cố Tri, cụ Cát có 3 bà vợ. Cả ba bà vợ sinh được 20 người con, trong đó có 7 người con trai.
Đời 3: Ông Lê Văn Giao. Ông sinh năm 1898. Ông thông thạo chữ Hán Nôm. Tham gia chức sắc cũ, hàm cửu phẩm. Vợ ông là Nguyễn Thị Đệ. Hai ông bà sinh được 6 người con, 2 người con trai và 4 người con gái: Lê Văn Lý (tức Tý), Lê Văn Đại, Lê Thị Cháu, Lê Thị Hai, Lê Thị Ba, Lê Thị Lộc.
Đời 4: Lê Văn Lý, tên thường gọi ông Sơn Lý, là con trai trưởng của ông Lê Văn Giao. Ông sinh năm 1932, là một kĩ sư chăn nuôi thú y, công tác tại Sở Nông lâm nghiệp tỉnh Nghệ Tĩnh, từng là Chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi thú y trường Trung cấp Nông lâm Nghệ Tĩnh. Vợ ông là Hoàng Thị Châu. Hai ông bà sinh được một người con trai và bốn người con gái.
Đời 5: Con trai trưởng ông Lê Văn Lý là Lê Minh Sơn, sinh năm 1961, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Vinh. Hiện nay là giáo viên trường Nam Đàn 1. Vợ là Hoàng Thị Sâm, hiện nay là hiệu trưởng trường mẫu giáo thị trấn Quỳ Hợp. Hai vợ chồng đã có một con trai và một con gái: Lê Hoàng Hà và Lê Thị Lan Hương.
Chi 2:
Đời 1: Lê Đăng Lâm là con thứ hai của cụ Lê Đăng Quý. Ông sinh năm 1814, học vấn cao nhưng không ra làm gì. Ông lấy vợ người họ Lê. Hai ông bà sinh được hai người con trai: Lê Đăng Uẩn, Lê Đăng Tuyên.
Đời 2: Lê Đăng Uẩn sinh năm 1835, ông thông thạo chữ nôm nhưng không tham gia công tác gì. Ông lấy người vợ họ Hồ. Hai ông bà sinh được một người con trai và một người con gái.
Đời 3: Lê Đăng Thiêm con trai cụ Lê Đăng Uẩn. Ông học giỏi chữ nôm, thi đậu Tam Trường, ông là người đi dạy học chữ nôm lâu năm. Ông có hai bà vợ. Bà thứ nhất là người họ Tống, sinh được 3 người con gái. Bà thứ hai người họ Nguyễn sinh hạ được hai người con, một người con trai và một người con gái: Lê Văn Tơng và Lê Thị Em.
Đời 4: Lê Văn Tơng sinh năm 1917, gia đình là một nhà nho nghèo. Lúc còn nhỏ ông theo cha ăn học đầy đủ, giỏi chữ hán và chữ quốc ngữ. Ông là nhà giáo, với hơn 30 năm trong nghề dạy học. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Bảy, sinh năm 1920. Hai ông bà sinh được 6 người con trai: Lê Văn Nguyên, Lê Văn Trình, Lê Văn Sinh, Lê Văn Bình, Lê Văn Dương, Lê Văn Hường.
Đời 5: Con trai trưởng Lê Văn Nguyên sinh năm 1943, là giáo viên cấp III trường Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá. Ông lấy vợ là Trương Thị Hổ. Hai ông bà sinh được 3 người con.
Chi 3:
Đời 1: Lê Đăng Hội, con trai thứ hai của Lê Đăng Quỳ. Ông lấy vợ người họ Nguyễn, sinh được hai người con, một trai, một gái.
Đời 2: Lê Đăng Thông, con trai trưởng của ông Lê Đăng Hội. Ông học hành thông minh, thi đậu tú tài thời nhà Nguyễn. Ông lấy vợ người họ Nguyễn. Hai ông bà sinh được ba người con, trong đó một người con trai và hai người con gái.
Đời 3: Lê Lục Hinh, sinh năm 1896, con trai duy nhất của ông Lê Đăng Thông. Lê Lục Hinh đậu đạt cao. Năm 1919, ông đậu giải nguyên, được phân về làm quan huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông lấy vợ họ Nguyễn. Hai ông bà sinh được 12 người con, trong đó có 5 người con trai và 7 người con gái.
Đời 4: Lê Quốc Trinh, sinh năm 1925. Ông là giáo viên cấp 3 ở Hà Nội. Gia phả không ghi tên vợ ông, chỉ ghi là người Hà Nội. Hai ông bà sinh được 3 người con, 1 người con trai, 2 người con gái.
Chi 4:
Đời 1: Lê Đăng Quỵ, con trái thứ ba cố Tri. Ông có hai người vợ nhưng gia phả không ghi tên, chỉ ghi ông có 2 người con trai: Lê Văn Hoành, Lê Văn Khướn.
Đời 2: Lê Văn Hoành con trai trưởng cụ Lê Đăng Quỵ. Ông thi đậu tú tài thời nhà Nguyễn nhưng không ra làm quan mà về nhà dạy học. Ông lấy vợ người họ Nguyễn. Hai cụ sinh được 3 người con trai và 3 người con gái: Lê Văn Phơn, Lê Văn Huỳnh, Lê Văn Chuyên. Con gái gia phả không ghi tên.
Đời 3: Lê Văn Phơn tức Lê Hồng Sơn, sinh ngày 29 tháng 6 năm 1899. Lúc nhỏ ông học rất giỏi, năm 20 tuổi ông qua Xiêm (Thái Lan) rồi sang Trung Quốc hoạt động cách mạng. Năm 1924, ông được gặp Nguyễn Ái Quốc và trở thành học trò xuất sắc của Người. Ông là người có công lao trong việc vận động 3 đảng thống nhất thành một Đảng cộng sản duy nhất vào tháng 2 năm 1930 tại Cửu Long, gần Hồng Kông, Trung Quốc. Vào năm 1932 ông bị bọn Quốc dân Đảng bắt và chúng trao cho thực dân Pháp. Hồng Sơn bị kết án tử hình. Đến ngày 24 tháng 1 năm 1932 (Quý Dậu), chúng đem ông về quê nhà và xử bắn tại chợ Tro. Lê Hồng Sơn sống anh dũng, chết vẻ vang. Ông là niềm tự hào của dòng họ và của quê hương đất nước.
Đời 4: Lê Văn Hoà, sinh năm 1932, là con trai trưởng của ông Lê Văn Huỳnh. Ông tham gia quân đội trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Nhọ. Hai ông bà sinh được bốn người con, trong đó có 3 người con trai và 1 người con gái.
Đời 5: Lê Văn Hải, con trai trưởng của Lê Văn Hoà, lấy vợ là Nguyễn Thị Nga sinh được 2 người con: Lê Thị Thanh, Lê Văn Long.
Chi ở Nam Đàn, gia phả ghi đến đời thứ 11.
Ở Thanh Chương có một chi thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng ở làng Dị Luân, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Chi này thuỷ tổ là ông Lê Đăng Thân, trước ở làng Nho Phái rồi sau tản đến làng Dị Luân, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Chi này hiện nay phát triển đến đời thứ 16, nhưng trong gia phả chỉ ghi đến đời thứ 13.
Đời 1: Phó Quốc vương Mạc Đăng Lượng sinh ra 8 người con thì Lê Đăng Thân về làng Di Luân, Đồng Văn, Thanh Chương.
Đời 2: Trong gia phả không ghi vợ Lê Đăng Thân mà chỉ ghi Lê Đăng Thân có 4 người con: Lê Ngọc Vạn, Lê Ngọc Đài, Lê Ngọc Triều, Lê Ngọc Trì.
Đời 3: Lê Ngọc Trì lấy vợ huý là Dung. Hai ông bà sinh được 1 người con là Lê Quang Cảnh.
Đời 4: Lê Quang Cảnh lấy vợ là Nguyễn Thị, sinh được 2 người con trai và 3 người con gái: Lê Thế Đại, Lê Thế Bi.
Đời 5: Lê Thế Đại lấy vợ là Phan Thị, sinh được 1 người con trai và 1 người con gái: Lê Thế Tôn, Lê Thị Mưu.
Đời 6: Lê Thế Tôn lấy vợ huý là bà Yêm. Hai ông bà sinh được 2 người con trai và 1 người con gái: Lê Thế Trực, Lê Thế Xuất. Người con gái không ghi tên.
Đời 7: Lê Thế Trực lấy 3 bà vợ, sinh được 6 người con. Trong đó có 2 người con trai và 4 người con gái: Lê Thế Xâm, Lê Sĩ Tào, Lê Thị Uyên, Lê Thị Nhiêm, Lê Thị Dưỡng, Lê Thị Trường.
Đời 8: Đại diện là Lê Sĩ Tào (1744-1813). Ông đi lính hơn 40 năm thì về hưu. Gia phả ghi ông lấy con gái đầu lòng của đội trưởng Lê Văn Ninh. Hai ông bà sinh hạ được 6 trai, 1 gái: Lê Thế Dân, Lê Thế Dật, Lê Thế Định, Lê Thế Cường, Lê Thế Truyền, Lê Thế Tố, Lê Thị Tuần.
Đời 9: Đại diện là Lê Thế Dật. Ông là con thứ hai của Lê Sĩ Tào. Ông lấy vợ tên huý là Ninh. Hai ông bà sinh được 3 người con: Lê Thức, Lê Khâm, Lê Thị Liêm.
Đời 10: Đại diện là Lê Nguyễn Hưởng. Gia phả không ghi rõ tên vợ. Ông bà sinh hạ được 3 người con: Lê Nguyễn Định, Lê Nguyễn Diệm, Lê Nguyễn Biên.
Đời 11: Đại diện là Lê Nguyễn Diệm, con thứ hai của Lê Nguyễn Hưởng. Gia phả không khi tên vợ. Hai ông bà sinh được 4 người con trong đó có 1 trai, 3 gái. Con trai là Lê Nguyễn Tư, còn con gái gia phả không ghi rõ tên.
Đời 12: Đại diện là Lê Ngọc Hinh, con ông Lê Ngọc Toán. Lê Ngọc Hinh là hội viên nông hội đỏ. Gia phả không ghi tên vợ. Ông sinh được 6 người con, trong đó 3 người con trai và 3 người con gái: Lê Ngọc Vinh, Lê Ngọc Danh, Lê Ngọc Xuân, Lê Thị Kỉ, Lê Thị Vinh, Lê Thị Sinh, Lê Thị Năm.
Chi phái cuối cùng của phái hệ Mạc Đăng Lượng là ở làng Tuỵ Anh, xã Nghi Phương, Nghi Lộc, Nghệ An. Thuỷ tổ chi này là ông Lê Đăng Tưởng.
Đời 1: Phó quốc vương Mạc Đăng Lượng sinh được 8 người con, người con Lê Đăng Tưởng trước ở làng Nho Phái rồi sau tản đến làng Tuỵ Anh, Nghi Phương, Nghi Lộc, Nghệ An.
Đời 2: Lê Đăng Tưởng sinh được Lê Đăng Quảng (gia phả không ghi tên vợ).
Đời 3: Lê Đăng Quảng sinh được 3 người con trai: Lê Đăng Hiệu, Lê Đăng Phản, Lê Đăng Hậu (gia phả không ghi tên vợ).
Đời 4: Lê Đăng Hiệu là người con trưởng của Lê Đăng Quảng, lấy vợ là Định Thị Khánh, sinh được 1 người con trai: Lê Đăng Kỳ.
Đời 5: Lê Đăng Kỳ, lấy vợ là Nguyễn Thị Đới, sinh được một người con trai là Lê Ngọc Chấn.
Đời 6: Lê Ngọc Chấn, bản thân làm lý trưởng lấy vợ là Nguyễn Thị Uy. Hai ông bà sinh được 6 người con trong đó có 3 người con trai: Lê Đăng Thìn, Lê Đăng Điếu, Lê Đăng Chương.
Đời 7: Lê Đăng Thình tộc trưởng, bản thân làm lí trưởng lấy vợ là Nguyễn Thị Như. Hai ông bà sinh được 7 người con, trong đó có 3 người con trai: Lê Đăng Thái, Lê Đăng Doan, Lê Đăng Vinh.
Đời 8: Lê Đăng Doan bản thân làm lí trưởng lấy vợ là Ngô Thị Vinh. Hai ông bà sinh được 3 người con trai: Lê Đăng Quâng, Lê Đăng Thung, Lê Đăng Vượng.
Đời 9: Lê Đăng Vượng lấy bà Nguyễn Thị Đích, sinh được 2 người con trai: Lê Đăng Lãm và Lê Đăng Lĩnh.
Đời 10: Lê Đăng Hiền (tộc trưởng), lấy bà Nguyễn Thị Trượng, sinh được 4 người con trai: Lê Đăng Châu, Lê Đăng Sơn, Lê Đăng Tuấn, Lê Đăng Tú.
Chi ở Nghi Lộc này cũng như các chi họ khác, con cháu ngày càng phát triển đông đúc, góp phần xây dựng quê hương ngày càng vững mạnh.
Như vậy là phái hệ Mạc Đăng Lượng ở Nghệ An tồn tại gần 500 năm. Tất cả 8 chi chia làm hai họ ở địa bàn 4 huyện trong tỉnh Nghệ An nhưng họ luôn gần gũi, đoàn kết giúp đỡ nhau, cùng nhau góp phần xây dựng quê hương Nghệ An ngày càng giàu mạnh.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- TỌA ĐÀM VỀ HAI BIA ĐÁ TÌM THẤY TẠI HUYỆN TIÊN LÃNG, TP. HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.