- Đang online: 1
- Hôm qua: 918
- Tuần nay: 15407
- Tổng truy cập: 3,368,903
KINH TẾ ĐẠI VIỆT THỜI MẠC (1527 )
- 380 lượt xem
KINH TẾ ĐẠI VIỆT THỜI MẠC (1527 – 1592)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH – 2011
(Tiếp theo kỳ 3)
Chương 3
KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP, TÀI CHÍNH ĐẠI VIỆT THỜI MẠC
3.1. Khái quát Thương nghiệp đầu thế kỷ XVI
Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi, nhà Lê đã ban hành nhiều chính sách để khôi phục và phát triển kinh tế của đất nước. Nông nghiệp phục hồi, thủ công nghiệp phát triển. Trên cơ sở đó thương nghiệp cũng có bước phát triển nhất định. Tuy nhiên do chính sách hạn chế buôn bán với nước ngoài nên nội thương có sự phát triển còn ngoại thương vẫn bế tắc kém phát triển.
3.1.1. Nội thương
Nội thương chủ yếu là trao đổi buôn trong cả nước. Nhờ công cuộc thống nhất quốc gia được củng cố, các đường giao thông, nhất là các đường sông được khơi đào, nên việc lưu thông, vận chuyển giữa các miền có nhiều điều kiện thuận lợi. Đặc biệt đơn vị đo lường hàng hoá đã thống nhất trong cả nước: “Hễ tiền đồng thì 60 đồng là 1 tiền, lụa lĩnh thì mỗi tấm dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên, vải gai nhỏ mỗi tấm dài 24 thước, rộng 1 thước 3 tấc trở lên, vải tơ chuối thì mỗi tấm dài 24 thước, vải bông thô mỗi tấm dài 22 thước, giấy thì tính 100 tờ” [17, 548]. Cùng với đó nhà nước còn quy định nghiêm trị những ai có hành vi buôn gian bán lận “Trong các chợ tại kinh thành và thôn quê, những người mua bán không đúng cân, thước, thăng, đấu của nhà nước mà làm riêng của mình để mua bán thì xử tội biếm hoặc đồ” [98, 90]. Pháp luật cũng quy định nghiêm trị những ai có hành động sách nhiễu và thu thuế quá cao “Những người coi chợ trong kinh thành sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xuy đánh 50 roi, biếm một tư, lấy thuế chợ quá nặng biếm hai tư, mất chức coi chợ, phải bồi thường lấy tiền trả cho dân; tiền phạt thưởng cho người cáo giác như lệ. Nếu lấy thuế chợ không đúng luật thì xử tội đánh 80 trượng và dẫn đi rêu rao trong chợ 3 ngày. Người thu thuế chợ trong các lộ, các huyện, các làng quá nặng bị xử tội thêm một bậc” [98, 90]. Tất cả những điều này có tác dụng thúc đẩy nội thương phát triển.
Kinh thành Thăng Long là trung tâm buôn bán lớn nhất thời Lê sơ. Từ kinh thành Thăng Long có thể đi đến các trấn xung quanh bằng đường sông như sông Hồng, sông Tô Lịch – Kim Ngưu hoặc đường bộ khá thuận tiện. Chính nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi mà các thương nhân ngày càng tập trung về kinh thành Thăng Long. Họ mở cửa hiệu buôn bán trong đó chủ yếu là buôn bán các loại tơ lụa, gấm thuê, vải vóc, nhuộm, vàng bạc và một số mặt hàng khác. Như vậy, đến đầu thế kỷ XVI, yếu tố thị ngày càng xuất hiện đậm nét ở kinh thành Thăng Long.
Ngoài Thăng Long và một vài thị trấn là những trung tâm buôn bán, còn lại hầu hết là các chợ địa phương. Trong mỗi địa phương hoặc từng xã, hoặc mấy xã lân cận thường có một chợ chung. Chợ họp hàng ngày hoặc theo một số ngày nhất định trong tháng. Họp chợ là dịp để cho nhân dân địa phương cũng như các thương nhân từ xa đến buôn bán trao đổi sản phẩm mà chủ yếu là sản vật địa phương cũng như các mặt hàng thủ công nghiệp. Qua việc trao đổi buôn bán đã góp phần thúc đẩy các sản xuất nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp phát triển. Tuy nhiên với tư tưởng “trọng nông ức thương”, nhà Lê sơ không thực sự khuyến khích mở chợ, buôn bán. Vua Lê Thánh Tông từng lệnh: “Từ nay về sau, trong việc làm ruộng, phải khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn đủ mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếm chuyện buôn bán, làm trò du thủ du thực. Người nào có ruộng đất mà không chăm cày cấy, thì quan cai trị bắt trình trị tội” [17, 618]. Không những vậy nhà nước Lê sơ đã dùng luật pháp để ngăn cấm việc mở cửa hiệu buôn bán ở kinh thành Thăng Long: “Ở trong hoàng thành thì những người thợ thủ công người buôn bán không được mở cửa hàng” [98, 69]. Lợi dụng điều này năm 1481, quan phủ Phụng Thiên cho đuổi hết những người làm ăn buôn bán ở Thăng Long về quê cày ruộng. Điều này khiến cho Phó đô ngự sử Quách Đình Bảo phải can thiệp với nhà vua rằng: “Kinh sư là gốc của bốn phương, tiền của trao đổi mua bán tất phải cho lưu thông đủ dùng, không nên để thiếu thốn. Trước đây, dân cư phủ Phụng Thiên, trừ những người quê quán ở phủ đó, gián hoặc có người không phải quê ở đó, nhưng có cửa hiệu, thuế ngạch và nộp thuế, chịu sai dịch với bản phường. Nay quan phủ Phụng Thiên lại không hỏi xem dân tạp cư ở đó có cửa hiệu, thuế ngạch hay không, đuổi hết cả về nguyên quán, e rằng như thế thì nơi kinh sư sẽ buôn bán thưa thớt, không còn sầm uất phồn thịnh nữa, không những người làm nghề buôn bán sẽ thất nghiệp nhiều, mà chợ búa e sẽ trống rỗng, ngạch thuế sẽ thiếu hụt, có phần không tiện” [17, 757].
3.1.2. Ngoại thương
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI trong xu hướng thương mại của châu Á, nhiều thuyền buôn nước ngoài đến nước ta ngày càng nhiều với hi vọng sẽ thu mua được nhiều sản vật của Đại Việt. Họ đã đề nghị triều đình cho phép được buôn bán. Tuy nhiên, những đề nghị này không được nhà Lê sơ chấp thuận. Chính sách hạn chế ngoại thương của các vua nhà Lê sơ một phần xuất phát từ nhu cầu tự vệ nhằm ngăn cản người nước ngoài đến do thám nhưng đồng thời nó thể hiện chính sách ức thương của nhà nước phong kiến.
“Trọng nông ức thương” là một chính sách truyền thống của giai cấp phong kiến. Chính sách ấy xuất phát từ lợi ích của giai cấp phong kiến muốn buộc chặt người nông dân vào ruộng đất để bóc lột. Chính quyền hạn chế không cho người nông dân rời bỏ quê hương đi buôn bán, tập trung ở các thị trấn.
Trên tất cả các cửa ải ở biên giới và các cửa biển dọc theo duyên hải, Nhà nước lập các cơ quan kiểm soát ngoại thương rất chặt chẽ. Những thương nhân nước ngoài đến buôn bán với Đại Việt phải tập trung ở các nơi quy định, đó là Vân Đồn, Càn Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thống Lãnh, Phú Lương, Tam Kỳ… và không được tự tiện vào sâu trong nội địa. Các thương thuyền ngoại quốc chủ yếu tập trung ở Vân Đồn. Nơi đây có chức Sát Hải sứ kiểm soát tàu bè, An Phủ ty và Đề Bạc ty kiểm soát việc buôn bán, đi lại.
Quốc triều hình luật còn ghi chép nhiều điều luật khắt khe nhằm hạn chế và kiểm soát ngoại thương. Thuyền bè nước ngoài đến Vân Đồn buôn bán phải xin phép các quan địa phương. Họ phải được quan địa phương cấp giấy mới được ở lại buôn bán. Còn “người ở Vân Đồn, chở hàng hoá Trung Quốc lên kinh thành mà không có giấy của An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Triều Đông lại không cho Đề Bạc ty kiểm soát, đã đem đi bán lén lút, cũng là khi về không có giấy của Đề Bạc ty cấp cho, đến chỗ Thông Mậu trường lại không cho đến cho An Phủ ty kiểm soát, mà đã về thẳng trang, thì đều phải biếm([1]) 1 tư và phạt tiền 100 quan, thưởng cho người tố cáo 1/3, số tiền phạt – PĐT. Nếu đem hàng hoá đến các nơi làng mạc mà bán giấu thì phải biếm ba tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo 1/3” [96, 184].
Nhân dân dọc biên giới và dọc duyên hải, kể cả các quan lại, các trang chủ nếu mà tự ý mua hàng hoá hoặc đón tiếp các thuyền buôn ngoại quốc thì bị nghiệm trị. Họ bị phạt rất nặng. “Thuyền bè ngoại quốc đến trang Vân Đồn buôn bán mà quan Sát Hải sứ đi riêng ra ngoài cửa bề kiểm soát trước thì bị biếm một tư. Thuyền buôn ấy muốn đậu lại lâu thì trang chủ phải làm giấy trình An Phủ ty làm bằng mới được ở lại; nếu trang chủ không trình mà tự ý cho ở lại thì bị xử biếm hai tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo 1/3. Nếu chứa những người ngoai quốc chưa đủ tuổi theo luật đã định thì bị xử biếm một tư và phạt tiền 50 quan; thưởng cho người tố cáo cũng 1/3” [98, 184].
Những chính sách pháp luật của nhà Lê sơ chỉ có thể hạn chế, kìm hãm chứ không thể thủ tiêu hoàn toàn xu hướng phát triển kinh tế hàng hoá. Dù nhà nước ngăn cấm, kìm hãm gay gắt nhưng nền kinh tế hàng hoá thời Lê vẫn phát triển thêm một bước. Do nền kinh tế hàng hoá phát triển nên hiện tượng lén lút buôn bán với người nước ngoài vẫn thường diễn ra. Việc buôn bán lén lút này thường mang đến một nguồn lợi nhuận khổng lồ. Bởi vậy, chính quan lại của triều đình, các sứ thần cũng tham gia vào hoạt động buôn lậu này.
Tình trạng các quan lại, sứ thần tham gia buôn lậu diễn ra thường xuyên nên pháp luật nhà Lê đã quy định rõ: “Các quan vâng mệnh đi sứ nước ngoài, mà chỉ chăm về việc mua bán thì phải tội biếm hay đồ. Nếu là vật quý lạ, cùng là sách vở, và các thứ thuốc men thì cho phép được mua. Khi về nước đến quan ải phải khai rõ từng thứ; quan ở trấn ấy, sai người đệ trình các thứ đó về kinh để kiểm soát; nếu có thứ già đáng dâng lên cho nhà vua dùng thì sẽ trả lại số tiền mua thứ ấy; còn các thứ khác sẽ trả lại cho người đi sứ. Nếu giấu giếm không khai thực, đều bị xử tội biếm hay bãi chức; đồ vật đó sẽ tịch thu sung công” [96, 96]. Mặc dù pháp luật rất nghiêm khắc nhưng các quan lại và sứ thần nhà Lê vẫn không từ bỏ việc buôn lậu. Đại Việt sử ký toàn thư cho chúng ta biết ngay từ thế kỷ XV đã có nhiều mệnh quan của triều đình tham gia buôn lậu bị phát giác.
Năm 1434, Tổng quản lộ An Bang là Nguyễn Tông Từ và Đồng Tổng quản Lê Dao bị biếm 3 tư và bãi chức bởi vì trong lúc kiểm soát hàng hoá của một thuyền buôn Gia Va đến Vân Đồn đã gian trá ẩn lậu một số hàng hoá trị giá 900 quan.
Tổng quản Lê Thụ thường xuyên cho người vượt biên giới Việt – Trung lén lút mua lậu hàng của Trung Quốc. Năm 1434, ngôn quan Phan Thiên Tước đã tố giác hành động buôn bán lén lút của Lê Thụ. Số hàng tịch thu được trị giá 15 lạng vàng và 100 lạng bạc.
Năm 1448, vùng biên giới miền Đông ngoa truyền rằng nhà Minh sai sứ sang hội khám biên giới. Triều đình sai Tư khấu Lê Khắc Phục, Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Văn Phú, Đào Công Soạn, Hà Lật, Nguyễn Thúc Huệ, Nguyễn Lan, Bùi Cầm Hổ, Trình Dục, Trịnh Mân, Lê Văn đi hội khám… Đến biên giới chờ đợi cả tháng trời dò xét tin tức thấy im ắng không có động tĩnh gì. Tất cả mọi người liền đem tiền của mua hàng hoá Trung Quốc mang về. Họ đã nói thác rằng khâm sứ nhà Minh có việc khác không đến. Ngôn quan Hà Lật cũng tham gia buôn lậu nên không nói một câu. Bởi vậy cả triều đình không ai hỏi đến tội đó nữa.
Mỗi lần đi sứ là cả sứ thần Việt Nam, Trung Quốc đều buôn bán làm giàu. Sứ thần nhà Minh thường mang hàng hoá sang rồi đặt giá cao bắt triều đình nhà Lê phải mua. Lúc về họ lại mua nhiều hàng hoá của nước ta đem về phương Bắc. Năm 1435, sứ bộ của Chu Bật về nước phải dùng tới gần 1000 phu gánh hành lý và hàng hoá. Sứ thần Đại Việt sang Trung Quốc cũng tranh thủ mua hàng hoá của phương Bắc đem về. Năm 1434, Chánh sứ Lê Vĩ sang Trung Quốc mua trên 30 gánh hàng đem về. Việc buôn bán của các sứ thần ngày càng nhiều. Để hạn chế việc buôn bán lén lút của các sứ thần, triều đình đặt ra lệ: Hễ sứ thần nào mua hàng hoá về thì bị khám xét rồi tạm thu lấy hàng hoá trưng bày ra ngoài điện đình cho “xấu hổ” sau đó mới cho lấy về. Việc khám xét ấy đã thành lệ tức là việc buôn bán của các quan lại sứ thần ngày càng nhiều và trở nên phổ biến.
Vào thời Minh, nền kinh tế công thương nghiệp Trung Quốc phát triển đã làm cơ sở cho việc mở rộng hoạt động thương mại của các thương nhân Trung Quốc đối với nước ngoài. Nhưng chính sách Hải cấm của nhà Minh đã làm cho một số thương nhân Trung Quốc ra nước ngoài buôn bán không dám quay trở về nước mà phải ở lại sinh cơ lập nghiệp ở nước ngoài. Đây là một cơ hội tốt để cho nền kinh tế Đại Việt phát triển.
Tuy nhiên, do chính sách hạn chế khắt khe của nhà Lê sơ nên tình trạng ngoại thương kém phát triển. Thuyền buôn ra vào nước ta ngày càng thưa thớt. Các chợ ở vùng biên như Kỳ Lừa (Lạng Sơn), Móng Cái, Vạn Ninh, Vân Đồn (An Bang) cũng suy dần. Năm 1467, thuyền buôn của Xiêm La đến Vân Đồn dâng biểu bằng vàng lá và nhiều vật phẩm quý để xin thông thương nhưng bị vua Lê Thánh Tông từ chối.
Những quy định về “ức thương” vẫn được các vua Lê sau này duy trì. Chính vua Lê Hiến Tông từng nói: “Thánh Tổ ta gây dựng đất nước, vua cha ta sửa trong, dẹp ngoài, quy mô đã định, ta không có việc gì phải thay đổi bày đặt, chỉ tuân giữ phép cũ, mở rộng và phát huy thêm” [18, 53]. Như vậy, chính sách “ức thương” đến đầu thế kỷ XVI vẫn không thay đổi. Chính sách hạn chế khắt khe này đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, làm cho quá trình tách thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp và quá trình đô thị hoá gặp nhiều khó khăn. Điều này đã cản trở bước phát triển của kinh tế Đại Việt nói riêng cũng như cản trở sự phát triển của lịch sử nước nhà nói chung.
Thủ công nghiệp thời Mạc phát triển đã tạo điều kiện cho hoạt động thương nghiệp phát triển. Hơn nữa chính sách cởi mở thông thoáng của nhà Mạc đối với các hoạt động công thương nghiệp cũng tạo tiền đề cơ bản cho nền kinh tế hàng hoá phát triển. Quá trình buôn bán trong nước cũng như giữa nước ta với nước ngoài trở nên nhộn nhịp. Nhưng các hoạt động buôn bán này rất ít được các sử gia phong kiến ghi chép lại. Tuy nhiên, dựa vào tư liệu văn bia, chúng ta có thể biết được việc xây dựng tu sửa cầu đường cũng như việc mở chợ.
3.2. Nội thương
3.2.1. Mở chợ
Dựa vào tư liệu văn bia thời Mạc, nhà nghiên cứu Đinh Khắc Thuân đã cho chúng ta biết một cách khái lược các chợ được mở vào thời Mạc như sau: “Năm 1530, mở chợ Cầu Nguyễn (Hưng Hà, Thái Bình), năm 1542, mở chợ Tứ Kì (Tứ Kì, Hải Dương), 1570, chợ Nghĩa Trụ (Văn Giang, Hưng Yên), 1572, chợ Cẩm Khê (Tiên Lãng, Hải Phòng), 1573, chợ Khả Lang (Gia Khánh, Ninh Bình), 1575, chợ La Phù (Thường Tín, Hà Nội), 1579, chợ Hậu Bổng (Gia Lộc, Hải Dương), 1580, chơ Đặng Xá (Ứng Hoà, Hà Nội), 1589, chợ Phúc lâm (Ba Vì, Hà Nội), 1590, chợ Đào Xá (Phú Xuyên, Hà Nội) và chợ Cẩm Viên (Yên Lạc, Vĩnh Phúc)” [88, 219]. Ngoài ra còn có chợ Bộc Đông, chợ Phù Ninh, chợ Đặng Xá…
Qua tác phẩm Ô Châu cận lục của Dương Văn An, chúng ta biết một số chợ ở Thuận Hoá giữa thế kỷ XVI, thời Mạc có các chợ sau: chợ Thế Lại, chợ Đại Phúc, chợ Thuận, chợ Đan Lương… Trong số các chợ của Ô Châu thì chợ Thế Lại có vẻ đông đúc nhất:
“Chợ Thế Lại
Ở xã Thế Lại huyện Kim Trà.
Đằng trước là ngã ba sông khuất khúc, phía sau cũng có ngòi nước uốn quanh. Lầu son gác tía ngang dọc như bàn cờ, chi chít tựa sao giăng. Thôn hoa nội biếc, đất rộng người đông. Nghìn khe cùng đổ đến rất thuận cho thuyền bè, ngã lớn thông thương mọi nẻo, thật tiện về đường bộ.
Thương nhân đua nhau đến mở quán ở đó, người sang vật quý tụ tập bán buôn tấp nập. Gà gáy đầu mọi người đã lục tục thức dậy, đúng ngọ thì nhộn nhịp cực điểm. Lều quán dựng la liệt suốt Đông Tây, cửa hàng mở dài ngắn đủ cỡ. Nào cờ xanh phướn biếc, chỗ của người mối lái phú thương; nào là gấm vóc, nơi hội tụ đủ hàng tốt của tứ xứ. Đây là một thắng cảnh của châu Ô” [1, 90].
Trong số các chợ kể trên, có nhiều chợ được mở do chính sách của nhà nước. Bia Nguyễn Kiều thị bi dựng năm Đại Chính thứ 2 (1532) cho ta biết: “Chợ Cầu Nguyễn xã Phúc Hải, huyện Ngự Thiên vốn có từ lâu rồi… Xưa mở chợ bên sông Thần Nông. Trải bấy triều trước biến đổi, đời này qua đời khác không biết bao nhiêu mà kể. Cầu Nguyễn trở thành thắng tích. Phía đông dẫn đến cửa rồng có thể du thuyền, phía tây đón khách bến đò Duyên, phía nam tiếp giáp Diên Hà, là làng nhân hậu; phía bắc thông với đường Duyên Bình đến sông nhỏ Trường An… Cầu hư hỏng. Các hương lão quan viên thôn trưởng già trẻ trong hương ta khởi công dựng lại từ ngày 27 tháng 2, năm Giáp Thân, niên hiệu Thống Nguyên thứ 3 (1524) triều trước, đến ngày 15 tháng 3 thì hoàn thành, đặt tên là chợ Cầu Nguyễn. Đến ngày 15 tháng 3, năm Canh Dần, niên hiệu Đại Chính nguyên niên (1530), nhân có tên cầu là Cầu Nguyễn (Nguyễn Kiều) mà sắc cho khôi phục lại chợ cũ…” [89, 80].
Chợ làng thời Mạc khá phát triển. Qua bia chợ Đông Ngạc, chúng ta biết rằng ở huyện Từ Liêm thời Mạc đã có 10 chợ lớn. Cũng qua tư liệu văn học dân gian, chúng ta cũng biết được các chợ phiên ở huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng):
“Một Râu, hai Mét, ba Ngà
Tư Cầu, năm Tráng, sáu đà lại Râu.
Tám Ngà, bảy Mét, chín Cầu,
Mồng mười chợ Tráng, một Râu lại về” [71].
Hồng Đức thiện chính thư cũng cho ta biết về điều lệ mở chợ thời Mạc: “Lệ về việc mở chợ. Ở các dân gian, đã có dân thì có chợ, chợ là để giao thương hàng hoá trong thiên hạ, phát triển đạo mậu dịch để thoả lòng người. Xã nào đã có chợ lập ra trước rồi, không được cấm đi rồi lại mở cái khác, để bế tắc đường thương mại một cách vô lý. Như làng nào mãi sau mới có lối buôn bán, khi đó mở chợ, thì không được đối với chợ làng xung quanh lập trùng ngày phiên lớn; hay là đón trước ngày phiên ấy mà chặn mối hàng của lái buôn. Nếu muốn mở chợ mới, phải xem các chợ cũ rồi lập sau ngày phiên thì được. Nếu chợ mở trước chợ mở sau, càn rỡ sinh ra mối tranh giành, không theo lệ cổ, mà muốn cấm doán chiếm lợi riêng, thì sẽ luận tội, tuỳ theo trường hợp nặng nhẹ, để trừng phạt cái thói phạm cấm lệ” [36, 145].
Trên thực tế thời Mạc đã có sự tranh chấp kiện tụng về việc mở chợ. Bia chợ xã Đông Ngạc đã nói đến việc tranh chấp quyền mở chợ giữa hai xã Đông Ngạc và Thụy Hương vào niên hiệu Sùng Khang 8 nhà Mạc (1573). Chợ xã Đông Ngạc còn gọi là chợ Vẽ bởi tên Nôm của xã là làng Vẽ. Chợ Vẽ có lẽ đã có từ cổ xưa. Chợ nằm sát bến sông Hồng, với phương tiện giao thông thời xưa chủ yếu bằng đường thủy, mà bến Vẽ là một bến sông khá gần Thăng Long thì đây là nơi rất thuận tiện cho hàng hóa tập trung về. Những mối lợi thu được từ chợ Vẽ rất lớn khiến cho Đông Ngạc trở thành một làng giàu có nổi tiếng. Bởi vậy “niên hiệu Sùng Khang thứ 8 (1573), ngày 26 tháng Ba, người xã Thụy Hương mở chợ họp riêng, đào hào đắp lũy, gây hấn tranh giành” [4]. Vụ việc tranh chấp mở chợ giữa Đông Ngạc và Thụy Hương được kiện lên quan. Khi các quan tra xét “thấy xã Đông Ngạc và xã Thụy Hương vốn liền ngay nhau, mà Đông ngạc đã có ngạch cũ về họp chợ còn Thụy Hương thì chỉ dựa vào bằng cớ xa xôi, hòng họp chợ cạnh tranh với Đông Ngạc, chẳng những trái lệ mà còn gây sự tranh giành. Vì vậy mới phải đem những điều khám xét được về nguyên do ngạch chợ, làm đầy đủ văn bản đề đạt lên, cúi xin được theo như ngạch chợ hạng trước đây, cho xã Đông Ngạc trở lại họp chợ như thường để dân chợ được tiện mua bán. Xã Thụy Hương không có ngạch chợ thì phải dừng họp chợ” [4].
Có ý kiến cho rằng thời Mạc thị tứ chưa xuất hiện nhưng theo tư liệu điền dã của chúng tôi thì ở Hải Phòng đã có: Phố Khách Long Mã, chợ Đá Bia (Thuỷ Nguyên); Phố Nhội (Phụ Lỗi phường Bàng La – Đồ Sơn), chợ Bàng (Đại Bàng). Phố Nhội chính là nơi ở, buôn bán của khách thương nước ngoài. Ngoài ra ở Tiên Lãng có Phố Lồ (xã Quang Phục); Vĩnh Bảo có Hạ Hôm (xã Cộng Hoà), chợ Hàn; Kiến Thụy có chợ May, chợ Mõ, chợ Xã… Hoạt động buôn bán ở các đô thị chưa thực sự sầm uất, song các chợ ở ven đô và chợ làng hoạt động khá tấp nập. Chợ Bộc Động (Hà Nội) là “nơi tụ hội tài vật trong thiên hạ”. Chợ Đặng Xá “là một khu hàng hoá sầm uất”; chợ Đào Xá “quán chợ trải ra la liệt”, còn chợ Phù Ninh thì “hàng hoá khắp nơi tấp nập đổ về” trong đó chủ yếu là vải vóc và thuốc bắc, chợ Vẽ “là nơi phồn thịnh đệ nhất Sơn Tây. Của cải đến ùn ùn, thuyền bè về san sát” [4]. Chợ Đại Phúc của xứ Thuận Quảng “Bốn phương thông suốt, tám hướng thênh thang, đường sá bằng phẳng, nghìn lạch trăm ngòi, thuyền bè tấp nập. Đây là nơi đô hội của miền Thổ Rí” [1, 90 – 91].
Phần lớn chợ thời kỳ này là chợ làng luôn gắn liền với chùa làng. Chợ Tứ Kì (Hải Dương) mở bên cạnh chùa Huệ Vân, chợ Hoa Cầu (Mĩ Hào, Hưng Yên) bên cạnh Hưng Phúc, chợ Hậu Bổng (Hải Dương) bên cạnh chùa Viên Quang, chợ Đặng Xá (Hà Nội) bên cạnh chùa Rộc, chợ Đào Xá (Phú Xuyên, Hà Nội) bên cạnh chùa Cam Lộ và chợ Viên Dương (Hoài Đức, Hà Nội) bên cạnh quán Viên Dương…
Chùa là nơi tu hành. Những người tu hành muốn xa lánh cuộc đời trần thế, tìm chốn thanh tĩnh để ngẫm nghĩ về những nỗi khổ đau của con người, về nguồn gốc và nguyên nhân của sự khổ đau đó, về con đường giải thoát khỏi những ham muốn trần tục. Đây là thế giới của những hoạt động tinh thần.
Còn chợ là nơi trần tục, nơi tụ họp để trao đổi buôn bán những vật phẩm hàng hoá. Nơi đây có cuộc sống náo nhiệt và là nơi thể hiện những ham muốn, khát vọng trần thế của con người.
Chợ và chùa là hai phạm trù gần như đối lập nhau. Thế nhưng tại sao hai phạm trù đối lập đó lại có thể gắn kết với nhau được? Điều này có thể lý giải như sau: Sau một thời gian Phật giáo bị hạn chế ở thời Lê sơ đến thời Mạc Phật giáo được chấn hưng. Nhiều ngôi chùa mới được trùng tu và xây dựng. Vị thế của những ngôi chùa lớn rất thuận lợi cho việc mở chợ. Chợ nhằm đáp ứng nhu cầu cho những Phật tử mua sắm lễ đi chùa. Người đi lễ chùa ban đầu chỉ mới nghĩ đến đi mua, tức là mua hương hoa vào lễ Phật nhưng rồi có thể mang một ít vật phẩm của kinh tế gia đình ra trao đổi thì mới có khả năng mua lễ vật và những thứ vật phẩm khác. Như vậy chợ chùa đã có sự trao đổi buôn bán hai chiều. Hơn nữa những nguồn lợi mà chợ mang lại rất lớn có thể gây ra tranh chấp giữa những làng xã và các cá nhân có thế lực ở trong làng. Bởi vậy, muốn cho chợ được tồn tại lâu dài, đất chợ đất Tam bảo khỏi bị xâm chiếm, những người đến chợ được bảo vệ quyền lợi các quyền lợi, các làng xã đã đem chợ nhượng lại cho chùa. Việc cúng chợ cho chùa không chỉ được thể hiện bằng văn bản, đem khắc ở bia đá mà còn viện dẫn đến sự chứng giám và uy quyền của thần linh. Bởi vậy đức Phật từ bi đã tự giải thoát khỏi những phiền não của cuộc đời lại bị lôi kéo vào công việc trần tục, bảo vệ quyền lợi vất chất của nhà chùa. Phật trở thành người giữ của, thành lực lượng để răn đe và trừng phạt. Những người buôn bán dưới cửa chùa không dám buôn gian bán lận, quyền lợi của người mua sẽ được đảm bảo. Hay nói một cách khác, tín ngưỡng tôn giáo đảm bảo cho hoạt động thương mại trở nên trong sáng hơn, hạn chế được gian lận thương mại. Phật giáo phục hưng, chùa chiền được nhà nước ban cho một số đặc ân như ruộng chùa không phải đóng thuế. Bởi vậy việc cúng chợ vào chùa cũng sẽ hạn chế được sự lũng đoạn của các quan lại cũng như những người có thế lực ở địa phương, đời sống của nhân dân sẽ bớt phần khó khăn. Triều đại có thể thay đổi nhưng những gì gắn liền với chùa chiền, tôn giáo có thể ít bị ảnh hưởng.
Các nhà buôn luôn thành tâm lễ Thần Phật, làm công đức để cầu cho buôn bán phát tài. Bởi vậy họ phải trung thực trong hoạt động buôn bán. Hơn nữa họ còn bỏ tiền của ra để làm công đức xây chùa mở chợ. Gia đình họ Phí cúng cho chùa Huệ Vân (Tứ Kì, Hải Dương) 1 thước đất chợ năm 1542 để làm của Tam bảo. Nhiều văn bia cho biết không ít người công đức tu bổ chùa Phật cũng đồng thời công đức mở mang chợ búa. Vì vậy chợ còn được gọi là chợ Phúc hay chợ Tam bảo. Đây chính là ước muốn lành mạnh hoá hoạt đông buôn bán bởi vì buôn bán ở chợ Tam bảo cần cầu phúc hơn là kiếm lời bất chính.
Từ chỗ là chợ của một làng, một số chợ đã trở thành chợ của nhiều làng, rồi chợ của một vùng và trở thành những làng buôn, như chợ Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội), chợ Hiến Nam trở thành thị tứ Phố Hiến. Chợ làng thường chỉ buôn bán sản vật địa phương như công cụ lao động, đồ gia dụng, thức ăn, vải vóc, đồ trang sức… để phục vụ cho sản xuất cũng như nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Ở các chợ buôn do được lưu thông từ nhiều nơi nên hàng hoá ở đây khá phong phú. Việc buôn bán ở đây khá sôi động và tấp nập…
3.2.2. Thông thương hàng hóa
Giao thông là mạch máu của nền kinh tế nước nhà. Giao thông đóng một vai trò quan trọng trong việc thông thương hàng hoá. Để thuận lợi cho việc đi lại cũng như thông thương hàng hoá, nhà Mạc đã cho xây dựng, mở rộng tu sửa nhiều cầu cống. Qua tư liệu văn bia chúng ta đã xác định được một số cầu được xây dựng hoặc tu sửa dưới thời Mạc:
“(1) Cầu Nguyễn (Hưng Hà, Thái Bình) năm 1530
(2) Lỗ Giang (Gia Lộc, Hải Dương) năm 1534
(3) Phù Ninh (Phù Ninh, Phú Thọ) năm 1543
(4) Man Đô (Văn Lâm, Hưng Yên) năm 1567
(5) Khê Cốc (Thanh Hà, Hải Dương) năm 1570
(6) Đạm Giang (Yên Lạc, Vĩnh Phúc) năm 1574
(7) La Phù (Thường Tín, Hà Nội) năm 1575
(8) Mỗi Nhu (Yên Dũng, Bắc Giang) năm 1580
(9) Lam Kiều (Tứ Kì, Hải Dương) năm 1586
(10) Giao Tất (Gia Lâm, Hà Nội) năm 1587
(11) Thiên Đông (Thuỷ Nguyên, Hải Phòng) năm 1588
(12) Phú Cốc (Thanh Miện, Hải Dương) năm 1588
(13) Đại Đồng (Yên Lạc, Vĩnh Phúc) năm 1590
(14) Diên Thọ (Quỳnh Phụ, Thái Bình) năm 1568
(15) Long Đài (Quỳnh Phụ, Thái Bình) năm 1588” [87, 215].
Tác giả Bùi Văn Vượng, trong tác phẩm Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, cho chúng ta biết thêm một chi tiết thú vị: “Vào đầu thế kỷ XVI, Mạc Đăng Doanh cho mở chợ Hới, cho xây dựng cầu bằng đá thay cho cầu gỗ qua sông Luộc sang chợ. Chợ Hới họp hàng ngày” [102, 408]. Tác giả không cho chúng ta biết niên đại chính xác của chiếc cầu này được xây dựng vào năm nào nhưng qua đó cũng giúp ta hiểu biết thêm về chính sách mở chợ xây cầu của nhà Mạc.
Đặc biệt, vào nửa đầu thế kỷ XVI, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vận động nhân dân dựng cầu đá Tràng Xuân trước của chùa Mét ở xã Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng mà nhân dân quen gọi là “Tràng Xuân Kiều” [94, 21].
Những chiếc cầu này thường nằm trên những tuyến đường giao thông quan trọng từ Thăng Long đi lên các tỉnh phía Bắc và đi xuống phía Nam, đặc biệt là từ Thăng Long đi đến Dương Kinh, kinh đô ven biển của nhà Mạc. Cầu Mỗi Nhu nằm ở trung tâm một vùng đất biên giới Lạng Giang. Cầu Mối Nhu có thể đi mở ra bốn hướng “phía đông từ bến Bình Lương về độ 5 dặm; phía tây đến bến Thái Cảo 3 dặm, phía nam ra bến Tư Mại cũng 3 dặm; phía bắc đến bến Cổ Dũng, Nghiêm Bạch 2 dặm” [89, 320]. Cầu Lỗ Giang (Gia Lộc, Hải Dương) thì “Phía đông qua cầu Lỗ Giang có thể đến được Dương Kinh; phía tây qua chùa Bảo Lâm là đến Kinh sư” [89, 86]. Cầu Phú Cốc thì “nằm trên đường lớn, phía đông thẳng đến Hải Thành” [89, 418]. Các cầu Man Đô, Khê Cốc, Lam Kiều, Thiên Đông đều nằm ở phía Đông, trung tâm kinh tế và hoạt động tín ngưỡng của thời kỳ này. Xung quanh Thăng Long có cầu Giao Tất (Gia Lâm) nằm trên đường “Thiên lý”, cầu La Phù (Thường Tín, Hà Nội) bắc qua sông Tô Lịch nối liền Thăng Long với phía Nam đất nước. Cầu Nguyễn ở Hưng Hà (Thái Bình) thì bắc qua sông Thần Nông nối liền con đường từ phía Đông tới Dương Kinh và phía Bắc với Thăng Long…
Cầu thời Mạc thường có kết cấu theo kiểu “thượng gia hạ kiều” (trên là mái nhà dưới là cầu). Văn bia tu tạo cầu đá ở xã Giao Tất (Gia Lâm, Hà Nội) cho biết “Phía trên thì bắc sà lợp mái, phía dưới thì lát đá làm sàn” [89, 403]. Cầu Khê Cốc ở Thanh Hà, Hải Dương gồm 5 gian lợp mái ở trên. Bởi vậy “Khách qua lại đề thơ, thi nhân mang rượu đến thưởng ngoạn. Người lọng dù, ngựa xe ngơi nghỉ, tiện lợi cho mọi người buôn bán. Hành khách ngại gió mưa, ẩn trú rất tốt” [89, 404]. Không những vậy cầu có mái che cũng nhằm phục vụ mọi tầng lớp nhân dân “Thợ thuyền tinh thông tay nghề nhà nông sống được bằng nghề của mình. Người chài lưới, qua đây đánh cá, người hái củi, qua nhờ cầu này mà kiếm sống được, kẻ chăn trâu có chỗ tạm nghỉ ngơi” [89, 251].
Việc xây dựng cầu không những nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đi lại của nhân dân, thông thương hàng hoá mà việc xây dựng tu bổ cầu còn được coi như việc làm phúc. Do đó công việc này thu hút được nhiều tầng lớp xã hội tham gia từ những người thuộc hoàng gia cho đến dân thường. Cầu Phú Cốc có tới 70 người công đức, trong đó có một số đại thần như Đỗ Uông, Thượng thư bộ Lại, Đỗ Trừng, Mạc Cảnh Hành… Cầu Đạm Giang do vị Tham nghị họ Nguyễn đạo Tuyên Quang khởi công xây dựng, sau đó được trí sĩ An Quận công là Phúc An Sĩ và Hy Phong tiên sinh cùng thái ông lão bà tổng Đạm Xuyên đứng ra tu sửa. Cầu La Phù do Thừa chánh sứ họ Bùi và Hiến sát sứ họ Phạm khởi xướng xây dựng cùng dân làng lân cận tham dự. Cầu Khê Cốc cũng do vị đại thần nhà Mạc là Trần Trí Phúc, chức Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân hưng công. Các thành viên hoàng tộc nhà Mạc cũng tích cực tham gia hưng công xây dựng cầu. Cầu chợ Bộc Đông (xã La Phù, Thường Tín, Hà Nội) có “Hương Cẩm Thái trưởng công chúa, Vương phi Nguyễn Thị Ngọc Dao, Cung Nghĩa công họ Mạc…” [86, 171]. Việc xây dựng sửa chữa cầu đường rất được triều đình quan tâm và khuyến khích. Thái tông Mạc Đăng Doanh từng ban sắc chỉ cho sửa chữa cầu Nguyễn Xá ở Hưng Hà, Thái Bình. Năm 1530, ông lại cho mở chợ ở đây. Nhờ vậy mà việc đi lại được thuận tiện không những đối với quan chức của triều đình khi thực thi công vụ mà còn đáp ứng được nhu cầu đi lại của muôn dân trăm họ như bia cầu Khê Cốc khẳng định “Sĩ tử vinh quy tiện lợi bộ hành. Kẻ võ công thuận đường xe ngựa, nông phu ra đồng, thương nhân đến chợ, khách bộ hành qua lại đều tiện lợi mừng vui” [89, 220]. Điều này đã phần nào phản ánh được thực tại xã hội thời Mạc về mặt giáo dục khoa cử (sĩ tử vinh quy), sản xuất nông nghiệp, buôn bán. Qua đây, chúng ta thấy thợ thủ công và thương nhân thời Mạc rất được coi trọng, không bị xem nhẹ như các giai đoạn trước đó.
Cũng trong thời Mạc, sông Hồng lần đầu tiên được đưa vào khai thác mạnh mẽ trong hoạt động thương mại. Điều này được chứng minh qua một số ngôi chùa thờ Quan Âm Nam Hải được tìm thấy ở gần ven sông Hồng. Trên Phật điện, tượng Ngài thường chiếm vị trí trung tâm. “Những pho tượng Quan Âm Nam Hải xấp xỉ to bằng người thực và lớn hơn, theo phong cách Mạc” [93, 300]. Nói tới Quan Âm Nam Hải ngoài ý nghĩa gắn với đạo Phật thì nổi bật là ở chức năng hỗ trợ và bảo vệ cho các nghề liên quan tới biển cả, sông nước… có nghĩa gắn với thương mại và nghề chài lưới.
Như vậy, nhà Mạc phát triển mở rộng hệ thống đường thuỷ bộ, cầu quán… do yêu cầu của giao thương, kinh tế phát triển.
3.2.3. Tiền tệ, giá cả
Tiền là huyết mạch của quốc gia, là biểu trưng kinh tế của một thời đại. Bởi vậy ngay sau khi lên ngôi vua năm 1528, Mạc Đăng Dung lập tức cho đúc tiền thông bảo: “Năm Mậu Tý (1528), mùa xuân tháng giêng, Đăng Dung muốn đổi chính lệnh mới bèn sai đúc tiền thông bảo theo kiểu cũ…” [18, 175]
Trong thời gian tồn tại ở Thăng Long (1527 – 1592) các vua nhà Mạc đã nhiều lần tổ chức đúc tiền nhưng hiện nay chúng ta mới chỉ biết đến Minh Đức thông bảo, Minh Đức nguyên bảo; Đại Chính thông bảo, Quảng Hoà thông bảo; Vĩnh Định thông bảo, Vĩnh Định chí bảo… Thời Mạc nền kinh tế hàng hoá bắt đầu phát triển bởi vậy đồng tiền bắt đầu có một sự ảnh hưởng, chi phối lớn đối với đời sống xã hội. Những mặt trái của đồng tiền được thể hiện rõ. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không chấp nhận được mặt trái của đồng tiền:
“Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi”
Ngoài ra vàng bạc cũng được dùng làm tiền tệ với giá trị cao. Thậm chí vàng bạc còn được sử dụng một cách rộng rãi trong các thành viên hoàng tộc Mạc. Nhiều người trong hoàng tộc đã cúng vàng, bạc vào chùa. Thái hoàng Thái hậu cúng vào chùa Thiên Phúc 6000 lá vàng, riêng chùa Bà Đanh đã có 23 vị trong hoàng tộc Mạc cúng bạc từ 1 lạng đến 10 lạng.
Qua tư liệu văn bia, chúng ta biết được số lượng tiền cúng vào các chùa đồng thời ta cũng biết được đơn vị tiền tệ thời Mạc. “Tì khâu Trí Minh, pháp hiệu Diệu Đàm 1 quan 2 mạch. Đạo Hoà 7 mạch. Nguyễn Thị Điển xã Dương Minh 1 quan. Đàm Tiến Khanh xã Thượng Đoan 6 mạch” [86, 157]. “Trần Đình Sản 5 mạch, Nguyễn Phúc Hảo, mỗi người 35 văn (của 35 người)” [86, 226]. Văn bia chùa Diên Phúc cũng cho biết “Già trẻ toàn xã Liễu Chàng vì xã thiếu quý tiền quan dịch (…) nên phân bổ hương ẩm mỗi người 3 mạch 50 văn sử tiền thay thế việc quan dịch” [86, 325]. “Đỗ Thị Sâm cúng 1 mẫu ruộng và 5 quan tiền cổ cho làng An Lí (Lí Nhân, Hà Nam) năm 1531, vợ chồng Lê Văn Chính cúng 10 quan sử tiền vào chùa Hưng Phúc” [87, 226]. Như vậy đơn vị tiền tệ thời Mạc gồm có văn, mạch, quan. 1 quan gồm có 10 mạch. 1 mạch có 10 văn. Trong văn bia chúng ta thấy có sử tiền và cổ tiền. Vậy sử tiền và cổ tiền là gì? Nhà bác học Lê Quý Đôn đã giải thích: “Ở bản quốc, 36 văn gọi là sử tiền, 60 văn gọi là cổ tiền. Những việc cấp phát công tư thì dùng sử tiền, còn thu nạp thuế thì dùng cổ tiền” [89, 226].
Đồng tiền thời Mạc rất có giá trị. Để công đức vào chùa người ta có thể cúng vài mạch thậm chí vài văn. Hơn nữa thời Mạc tiền đã được sử dụng một cách rộng rãi. Đồng tiền ngày càng chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Mỗi mẫu ruộng có giá 30 quan tiền. Giá một bình hoa gốm khoảng 3 quan.
Đồng tiền được sử dụng rộng rãi chứng tỏ hoạt động mua bán trao đổi phát triển hay nói một cách khác nền kinh tế hàng hoá đã phát triển hơn trước.
3.3. Ngoại thương
Vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, sau những phát kiến lớn về địa lý phạm vi buôn bán của thế giới được mở rộng. Các thuyền buôn của phương Tây đua nhau đến phương Đông. Phương Đông ngày càng có sức thu hút đối với các nước phương Tây đang trong quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Lần đầu tiên trong lịch sử các thuyền buôn phương Tây đã có thể trực tiếp đến các quốc gia ở châu Á để trao đổi buôn bán. Sự xuất hiện của các thuyền buôn phương Tây đã làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ kinh tế, văn hoá truyền thống vốn được thiết lập giữa các quốc gia trong khu vực. Hệ thống kinh tế thương mại tạo điều kiện mới cho sự hội nhập kinh tế châu Á vào hệ thống kinh tế thế giới, góp phần vào sự phát triển của nhiều ngành kinh tế và sự phồn thịnh của các quốc gia.
Nước ta nằm trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, lại gần kề với Trung Quốc – một quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn ở châu Á. Bởi vậy hoạt động kinh tế thương mại của nước ta chịu sự tác động mạnh mẽ của hệ thống thương mại châu Á. Tất cả những biến đổi này đã đặt vương triều Mạc đứng trước những vận hội cũng như thách thức của lịch sử. Vậy ngoại thương thời Mạc như thế nào? Ở đây chúng tôi không có tham vọng sẽ đi sâu phân tích ngoại thương thời Mạc mà chúng tôi chỉ dám nghiên cứu về một số hệ thống bến cảng tiêu biểu ở thời Mạc cũng như những hàng hoá được trao đổi buôn bán với các thương nhân ngoại quốc trong giai đoạn này.
3.3.1. Bến cảng
Việt Nam từ rất sớm đã có sự giao lưu buôn bán với nước ngoài. Ở nước ta đã hình thành nhiều bến cảng để cho các tàu buôn nước ngoài đến buôn bán. Trong tác phẩm Dư địa chí, Ức Trai tiên sinh cho chúng ta biết: “Các người ngoại quốc không được tự tiện vào trong nội trấn, tất cả đều phải ở Vân Đồn, Vạn Ninh, Cần Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thống Lĩnh, Phú Lương, Tam Kỳ, Trúc Hoa” [96, 244]. Vậy hệ thống bến cảng thời Mạc như thế nào?
Trước hết là cảng Vân Đồn: Vân Đồn là một cảng thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Năm 1149 vua Lý Anh Tông cho thành lập trang Vân Đồn để buôn bán với người nước ngoài, mở ra sự hình thành và phát triển của hệ thống thương cảng Vân Đồn – cánh cửa hội nhập đầu tiên của nước ta. Đây cũng là thương cảng biển đầu tiên của Việt Nam, trong giao thương với các nước trong khu vực Đông Á và thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Chà Và (Indonesia)… Đến thời Lê sơ “triều đình đặt hai châu Vân Đồn, Vạn Ninh sai tướng trấn phủ. Khách thương đến buôn bán, lớp này đến lớp khác, đem đồ dâng cống” [96, 226]. Quy mô lớn của thương cảng Vân Đồn một thời sầm uất đã được các nhà khảo cổ ghi nhận qua việc phát hiện nhiều bến bãi với đồ gốm và tiền đồng nhiều triều đại, trên suốt một dải đảo từ Cống Đông, Cống Hẹp, Cống Yên, Ngọc Vừng đến Minh Châu, Quan Lạn… Qua các dấu tích nền nhà cổ thường bắt gặp những hũ sành đựng tiền đồng cổ thuộc các thời đại phong kiến Trung Quốc từ nhà Đường tới nhà Thanh; tiền Việt Nam từ nhà Lý tới nhà Nguyễn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Mạnh Dũng cho rằng : “Đến thế kỷ XV – XVI Vân Đồn vẫn là thương cảng lớn và quan trọng nhất của quốc gia Đại Việt. Trong lịch sử ngoại thương Việt Nam, Vân Đồn là thương cảng hình thành sớm, hoạt động liên tục và có vai trò quan trọng trong suốt 7 thế kỷ” [52]. Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Ninh trong Thương cảng Vân Đồn cho chúng ta biết: “Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh có một số đáng kể những công trình quân sự thời cổ. Mấy toà thành lớn là di tích thời Mạc. Vùng Quảng Ninh cũng là địa bàn hoạt động quan trọng của quân đội nhà Mạc cho nên ấn tượng về nhà Mạc in khá đậm trong ký ức của nhân dân địa phương. Những di tích đồn ở vùng này đều gọi chung là “thành nhà Mạc” [77, 259]. Như vậy, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Ninh chỉ cho chúng ta biết vai trò của Vân Đồn thời Mạc mang tính chất quân sự nhiều hơn là thương mại, nếu như không muốn nói là thời Mạc hoạt động thương mại ở Vân Đồn không phát triển. Trong số các đồng tiền cổ Việt Nam được tìm thấy ở Vân Đồn, chúng ta không thấy một đồng tiền nào thời Mạc. Nhà sử học người Mỹ John Whitmore cũng đã đưa ra quan điểm về sự suy tàn của Vân Đồn. Theo chúng tôi, thời Mạc hoạt động thương mại ở Vân Đồn không nhộn nhịp bằng thời Lý, Trần, Lê sơ. Điều này có thể được giải thích như sau: Năm 1527 Mạc Đăng Dung lên ngôi hoàng đế, nhà Mạc được thiết lập ở Việt Nam. Một số cựu thần nhà Lê sơ đã chạy sang Trung Quốc cầu cứu nhà Minh đem quân đánh nhà Mạc. Đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà Minh, Mạc Đăng Doanh “Liền tu sửa trại sách, luyện tập thuỷ quân; trưng cầu hết thảy các cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước” [23, 277]. Một hệ thống căn cứ quân sự được thiết lập ở Vân Đồn để đề phòng sự tấn công của quân Minh. Hơn nữa thời Mạc với sự phát triển của hệ thống cảng sông nằm sâu trong nội địa nên có thể Vân Đồn không còn được các thuyền buôn nước ngoài cập bến.
Cảng Đomea: Đomea xuất hiện khá phổ biến trong các tập bản đồ, các trang tư liệu liên quan đến hoạt động thương mại của người phương Tây đương thời, nhưng hầu như không được nhắc đến trong các nguồn tư liệu Việt Nam” [71]. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi vì dưới xã hội phong kiến Việt Nam nói riêng, phong kiến phương Đông nói chung, đối tượng của sử học là các hoạt động của vua quan, các công trình sử học chủ yếu được ghi chép theo lối biên niên. Các hoạt động về kinh tế, xã hội hầu như không được chú ý. Bởi vậy cái tên Đomea hoàn toàn không được nhắc đến trong các thư tịch cổ của Việt Nam. Đến năm 1992, trong Hội thảo khoa học quốc tế về Đô thị cổ Phố Hiến vấn đề này mới được các nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Năm 2002, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hoá (nay là Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển) phối hợp với Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng đã tiến hành đào hố thám sát khảo cổ học. Kết quả thu được các hiện vật gốm đều thuộc dòng gốm xuất khẩu Chu Đậu niên đại thế kỷ XVI – XVII. Năm 2007, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển đã tổ chức khảo sát dọc tuyến hạ lưu sông Đàng Ngoài, bắt đầu từ làng Bến (thôn Cung Chúc, xã Trung Lập, Vĩnh Bảo) và kết thúc tại thị xã Đồ Sơn. Cũng từ năm 1992, nhiều công trình nghiên cứu về cảng Đomea lần lượt được công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như: Trần Đức Thạnh, Nguyễn Ngọc Thao, Đinh Văn Huy, Trần Văn Điện: Vị trí cảng thị Domea ở khu vực Tiên Lãng (Hải Phòng), Tạp chí Khảo cổ học 2007; Nguyễn Quang Ngọc: Domea (Đô-mê-a) trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII – XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử năm 2007; Nguyễn Văn Kim: Vị trí của Phố Hiến và Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI – XVII (Tư liệu lịch sử, điều tra điền dã và khảo cổ học), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử 2007; Đỗ Thị Thùy Lan: Tàu Grol năm 1637 vào Đàng Ngoài ở cửa sông nào?, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử năm 2010… Tất cả các bài nghiên cứu đều chưa thống nhất với nhau về vị trí cảng Domea. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ngọc dựa vào nguồn tư liệu của phương Tây và kết hợp với khảo sát thực tiễn đã kết luận vị trí của cảng Domea “bến thuyền và đầu mỏn đất hình quả xoài nằm chắn ngang cửa sông ở toạ độ 20045’, mang dòng chữ Domea không thể nằm ngoài khu vực bến sông và đê cát cổ là khu dân cư và cánh đồng thôn An Dụ, xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, Thành phố Hải Phòng” [71]. PGS.TS. Nguyễn Văn Kim dựa vào “độ trù mật cao của những địa danh cổ và các vết tích thương mại xuất lộ trên mặt đất” [47] cho rằng vị trí của cảng Domea ở khu vực Nông trường Quý Cao hiện nay. Nhà nghiên cứu Đỗ Thị Thuỳ Lan trong bài nghiên cứu của mình lại cho rằng vị trí của cảng Domea ở làng An Dụ: “Đối chiếu với Bản đồ Sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII và Bản đồ Sông Đàng Ngoài (La Ri vière de Tonquin), Domea nằm về bên phải nhánh sông “channel”, làng An Dụ cũng nằm ở phía bên phải sông Thái Bình cổ. Đối diện với Domea trên Bản đồ Sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII là một ngôi đền, tương ứng với đền Hà Đới (xã Tiên Thanh), một di tích lịch sử lâu đời và nổi tiếng nhất trong vùng, lại đối diện với An Dụ qua lòng sông Thái Bình cổ. Đặc biệt, làng An Dụ ở vào khoảng vĩ độ 20045’ đúng như mô tả của các tài liệu phương Tây về Domea” [54]. PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ (1994) cho rằng Domea có khả năng là thôn Đông Minh, nay thuộc xã Tiên Minh, phía Nam huyện Tiên Lãng. Ông Ngô Đăng Lợi cũng cho rằng “Domea” là cách đọc của “Đông Minh”. Còn theo GS. Trần Quốc Vượng (2001), “Domea” có thể là “Đò Mía”, tỉnh Hải Dương. Năm 2002, GS.TSKH. Vũ Minh Giang khẳng định Domea chỉ có thể nằm trong khu vực phía Bắc thị trấn Tiên Lãng” [54]. Như vậy, các nhà nghiên cứu đều có ý kiến khác nhau về vị trí của cảng Domea nhưng đều thống nhất rằng vị trí của cảng Domea nằm trên hạ lưu sông Thái Bình thuộc huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Trong lịch sử, hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá ở cảng Domea khá tấp nập. Đặc biệt với sự có mặt của các thuyền buôn và thương nhân phương Tây đã biến Domea thành một khu vực sầm uất, trù phú, một cảng cửa khẩu quốc tế quan trọng. Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc đã khẳng định vai trò quan trọng của Domea “trong thực tế cảng cửa khẩu Domea tồn tại hàng thế kỷ liên tục và đã từng có những thời kỳ nhộn nhịp với các hoạt động thương mại, đóng vai trò là cảng cửa khẩu lớn nhất và quan trọng nhất của toàn bộ vùng Đàng Ngoài” [71].
Ngoài Vân Đồn, Domea, trong số các tư liệu của phương Tây nói về cửa sông nước ta thời Mạc còn có nhắc đến địa danh Batsha. Tuy nhiên, Batsha có nhiều tên gọi khác nhau như: Batsha; Battsha, Batza và Batshaw, trong đó Batsha vẫn được dùng phổ biến nhất. Batsha là tên gọi của một làng ven biển mà các thương thuyền châu Âu thường cập bến đầu tiên tại vùng cửa sông Thái Bình. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Thị Thuỳ Lan thì vị trí của Batsha chính là làng Phương Đôi thuộc xã Tiên Minh huyện Tiên Lãng, Hải Phòng ngày nay. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm này của tác giả. Bởi khu vực làng Phương Đôi còn lưu giữ được những địa danh “phố” như Khu Phố, Khu Sau Phố, Vũng Chợ, Cửa Phố. Nơi đây cũng tập trung dày đặc những hiện vật gốm, ngói, gạch cổ có niên đại thế kỷ XVI – XVIII, làm chúng ta nhớ đến một địa điểm buôn bán trong quá khứ. Nếu như Domea là một cảng tốt, nơi neo đậu, điểm tạm trú của thuỷ thủ và thương nhân thì Batsha là điểm tiên phong từ đất liền tiếp xúc, đón nhận tàu thuyền và là mũi tiền tiêu của Domea về phía biển. Hai địa điểm này có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau hợp thành một hệ thống cảng biển có vai trò quan trọng trong hoạt động ngoại thương.
Cảng Minh Thị: Bia chùa Minh Phúc dựng năm 1669 cho chúng ta biết vào năm Sùng Khang thứ 5 (1572), Thái hoàng thái hậu họ Vũ nhà Mạc đã mua 5 mẫu đất với giá 120 lạng bạc làm ruộng tam bảo. Chính bà cũng cho mở chợ Cẩm Khê ở Minh Thị. Hiện nay tại chùa Minh Thị còn có bức phù điêu bằng đá của Thái hoàng thái hậu họ Vũ. Phía sau phù điêu là bia đá. Bà được thờ một cách trang trọng ở trong chùa. Một số người dân trong vùng khi canh tác quanh chùa và bến sông cũng đào được một số di vật trong đó chủ yếu là đồ gốm, sứ. Năm 1992, các nhà khoa học thuộc Bảo tàng Lịch sử Việt nam và Bảo tàng Hải Phòng đã tiến hành khảo sát ở khu vực Minh Thị. Kết quả khảo sát không hề thấy vết tích của sành, gốm mà chúng chỉ tập trung ở ven sông và xung quanh chùa, với mức độ đậm nhạt khác nhau mà không theo vỉa, lớp như một số trung tâm sản xuất gốm. Đặc biệt ở nơi đây không hề có những phế phẩm… Bởi vậy Minh Thị không phải là một nơi sản xuất gốm như nhiều người vẫn nghĩ.
“Theo GS. Vũ Minh Giang và GS. Nguyễn Quang Ngọc, thì: Vào khoảng thế kỷ XVI – XVII, có một dòng sông nối từ sông Văn Úc chạy qua thôn Minh Thị. Và, cũng thời gian đó, đường sông là đường chủ yếu, thuận tiện cho các hoạt động quân sự, buôn bán…”. “Thôn Minh Thị xưa còn có tên là Minh Lãng, Lãng Thị, hay chỉ gọi nôm là làng Minh, với khung cảnh buôn bán tấp nập, trên bến dưới thuyền” [94, 27]. Minh Thị không chỉ là chợ tiểu cảng tiếp nhận sản phẩm trong nước mà nó còn tiếp nhận cả sản phẩm của nước ngoài.
Cảng An Quý: Là một trung tâm kinh tế nổi tiếng thế kỷ XVI thời Mạc. Nơi đây là một tiểu cảng, cạnh sông Bạc Đà ăn với sông Thái Bình và sông Chanh để tạo nên một phố chợ sầm uất. Nơi đây cũng giáp với sông Hoá và nhiều lạch thoát chiều, gần với Minh Thị. An Quý cũng chỉ cách biển từ 7 đến 8km. Câu ca “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Hạ Hôm (An Quý – tg)” đã nói lên sự giàu có của nơi đây. Chợ An Quý là một chợ nổi tiếng thời Mạc. Chợ này cũng rất gần với chợ Na Ma, chợ vùng của xứ Hải Dương bởi vậy nơi đây rất được nhà Mạc chú ý tạo điều kiện cho người dân phát triển buôn bán. Vết tích chợ An Quý ngày nay vẫn còn. Đó là khu vực nghĩa trang liệt sĩ của xã Cộng Hiền – Vĩnh Bảo – Hải Phòng. Nhà Sử học Ngô Đăng Lợi – Chủ tịch Hội sử học Hải Phòng đã được người dân nơi đây cung cấp nhiều tiền cổ trong đó có cả tiền Khai Nguyên đời Đường, đời Tống của Trung Quốc. Năm 1992, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Hải Phòng đào một hố thám sát 3m2. Mặc dù mới chỉ đào thám sát 3m2 nhưng với tư liệu thu được có thể khẳng định An Quý là một trung tâm thương mại, là một tiểu cảng ở thế kỷ XVI.
Cảng Phố Hiến: Phố Hiến có một vị trí thuận lợi chỉ cách kinh thành Thăng Long khoảng 50km. Từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh đô mất 3 ngày. Vị trí của Phố Hiến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tuyến giao thông đường thuỷ thuộc hệ thống sông Hồng – sông Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Phố Hiến được hình thành ở thế kỷ XIII. Đến thế kỷ XVI, Phố Hiến trở thành thương cảng nhộn nhịp “trên bến dưới thuyền”. Lần lượt những thương lái người Hoa, người Nhật rồi người Hà Lan, người Anh… đã cập thương cảng này để làm ăn, sinh sống, lập ra các đường phố người nước ngoài, các hội quán như Ðông Ðô, Quảng Hội chuyên bốc thuốc, khám chữa bệnh, bán vải vóc, hương liệu… Người Nhật cũng đến Phố Hiến hình thành nên các phố Bắc Hoà, Nam Hoà chủ yếu mua bán tơ lụa, gốm sứ, đồ gỗ, người Hà Lan mua bán tơ sống, quế. “Vào thời điểm này Phố Hiến là nơi dừng lại của tất cả các thuyền bè nước ngoài từ bốn phương đến buôn bán ở Đàng Ngoài” (An Nam ký du của Phan Đình Khuê, viết năm 1688). Giáo sĩ Risa người Hà Lan cũng ghi lại: “Thuyền bè đi về Phố số lượng quá lớn đến nỗi khó có thể lội xuống bờ sông được”.
Như vậy, vào thế kỷ XV – XVI, cùng với sự suy yếu của Chân Lạp, Chămpa, hoạt động thương mại bắt đầu có sự dịch chuyển từ các cảng thuộc khu vực Nghệ – Tĩnh ra vùng hạ châu thổ sông Hồng và vịnh Bắc Bộ. Điều đặc biệt là một hệ thống cảng Sông Đàng Ngoài đã được hình thành và phát triển dưới thời Mạc. Các cảng này đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngoại thương Đại Việt thời Mạc.
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng từng nhận xét: “Cái nhìn về biển của người gốc dân chài xứ Đông nhà Mạc mạnh hơn cái nhìn về biển của người gốc dân chài xứ Nam nhà Trần và rõ ràng mạnh hơn hẳn cái nhìn về biển của người nông dân xứ Thanh “vua quan hoá” nhà Lê” [104, 841]. Quả thật vậy Cổ Trai quê hương của nhà Mạc từ lâu đã có truyền thống buôn bán. Thuyền bè ra vào tấp nập. Ngay từ thời thuộc Minh, chính quyền phương Bắc đã cho thành lập Diêm khoá ty để thu thuế, đặc biệt là thuế muối.
Cùng với việc xây dựng Dương Kinh, kinh đô ven biển đầu tiên và duy nhất của Đại Việt, nhà Mạc cũng thể hiện cái nhìn hướng biển để phát triển kinh tế. Dương Kinh không chỉ là đất thang mộc nơi phát tích của vương triều Mạc mà nơi đây cũng đã trở thành một trung tâm kinh tế. Nhiều thuyền buôn nước ngoài đã đến Dương Kinh. Các thuyền buôn phương Tây mỗi khi vào cửa sông Đàng Ngoài thường lấy núi Voi và đảo Ngọc làm mốc định hướng. Ngày nay vẫn còn dấu tích của hệ thống tiểu cảng ven sông và giếng nước ngọt ở Bàng La, Đại Hợp, Đoan Xá bán nước ngọt cho các thuyền buôn của thương nhân nước ngoài.
Việc hình thành hệ thống cảng sông nằm sâu trong đất liền không chỉ cho ta thấy những chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà mà còn thể hiện một chính sách kinh tế tự chủ, tương đối khoáng đạt của vương triều Mạc.
3.3.2. Hàng hoá
Từ lâu các nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng luôn luôn hấp dẫn các nước phương Tây về hương liệu, đồ gốm sứ… Việc buôn bán các mặt hàng này thường đem lại một nguồn lợi lớn. Đặc biệt khi nhà Minh (Trung Quốc) ban hành chính sách cấm hải, hạn chế hoạt động của kinh tế ngoại thương thì Đại Việt trở thành một điểm đến của các thương nhân nước ngoài. Các tàu buôn nước ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều. Một số thương nhân người Hoa và người Nhật đã tìm cách định cư tại Đại Việt. Chính quyền nhà Mạc đã sắp xếp, tạo điều kiện cho họ làm ăn buôn bán. Theo nhà nghiên cứu Đinh Khắc Thuân thì địa điểm Quỳnh Côi của Thái Bình là một nơi tập trung rất nhiều người Hoa sinh sống. Hiện nay vẫn còn nhiều văn bia, mộ của người Hoa.
Nhà Mạc đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích sự phát triển của thương nghiệp. “Đăng Doanh thấy trong nước còn nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các xứ, không được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí đi ngoài đường. Nếu kẻ nào trái lệnh, cho pháp ty bắt trị tội” [23, 276]. Bởi vậy, từ đó người đi buôn bán không phải đem theo vũ khí tự vệ. Đây thật là cảnh thanh bình hiếm có. Không những vậy, với việc mở chợ, sửa chữa, làm mới cầu cống làm cho giao thông trở nên thuận tiện, đi lại dễ dàng.
Hơn nữa, tính cách của người Việt đã tạo được niềm tin của thương nhân nước ngoài trong quan hệ buôn bán so với người Hoa. Jena-Baptiste Tavernier một lái buôn phương Tây đã nhận xét: “Buôn bán với người Đàng Ngoài thì thích thú hơn và có lợi hơn với người Trung Hoa. Người Trung Hoa nếu có cơ hội lừa đảo được là lừa đảo ngay, khó mà có thể đối phó với những mánh khoé của họ được. Bản thân tôi đã từng bị họ lừa gạt. Khi người ta bán cho họ cái gì mà họ thấy thị trường không có lợi cho họ thì họ dùng cách sau đây để giải thoát món hàng đó. Thường thì họ có ba loại tiền reales, một loại có trọng lượng hợp cách, một loại nhẹ hơn 4%, một loại nhẹ hơn 8%. Nếu họ không muốn giữ giá đã mặc cả, họ trả tiền bằng loại reales nhẹ mà họ đã mài đi một chút, thế là việc mua bán không thành nữa. Ở trên thế giới này không có hạng lái buôn nào lại tinh ma đến thế. Cái gì họ cũng ưng, cái gì họ cũng mua, ngay cả đến giày cũ họ cũng mua. Nếu ta bán cho họ một chiếc giày thôi, họ cũng mua ngay, chẳng cần hỏi tại sao ta không bán chiếc kia. Nhưng với người Đàng Ngoài, họ tròn trặn trong việc buôn bán. Buôn bán với họ thật dễ chịu” [40, 42 – 43]. Bởi vậy vào thế kỷ XVI, các thương nhân phương Tây đến làm ăn buôn bán với Đại Việt ngày càng nhiều.
Việc buôn bán giữa Đại Việt với các thuyền buôn nước ngoài thường diễn ra vào một khoảng thời gian nhất định trong năm mà nhân dân ta quen gọi là mùa mậu dịch. Thông thường mùa mậu dịch kéo dài từ 3 đến 4 tháng. Sau khi đến được thương cảng của các nước, thuyền buôn của Trung Quốc, Nhật Bản, Siam cũng như nhiều nước khác phải tích cực thu mua hàng hoá và đợi gió mùa. Thuyền buôn của các nước Đông Bắc Á đến Đại Việt thường phải đi vào mùa gió mùa Đông bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Đây cũng là thời gian ở vùng châu thổ sông Hồng thời tiết khô ráo rất thuận lợi cho việc thu mua hàng hoá. Đến tháng 6, tháng 7 khi gió mùa Đông Nam thổi lên các thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản theo hướng gió về nước. Trong thời gian ở Đại Việt, họ tìm cách thu mua trầm hương, tơ lụa, gốm sứ, ngọc trai…
“Theo ghi chép của Tome Pirés thì vào đầu thế kỷ XVI, Cochinchina (đồng nghĩa với Đại Việt thời gian đó) đã xuất khẩu đủ các loại tafetas (loại hàng lụa bóng) chất lượng cao và tơ lụa thô loại tốt cùng với vàng, bạc, kalambak (trầm hương loại hảo hạng), gốm sứ và ngọc trai lớn. Vào cuối thế kỷ này, một người châu Âu khác là de Mendoza cũng xác nhận rằng một lượng lớn tơ lụa đã được đưa đến Malacca bởi người Việt và người Chăm” [53]. Tơ cũng là một mặt hàng rất được các thương nhân thu mua. “Việc buôn bán tơ lụa thường mang lại một nguồn lãi rất lớn khoảng gần 200% do giá tơ của Đàng Ngoài rẻ” [50, 124]. Bởi vậy lúc này tơ rất có giá trị. Trong bối cảnh tôn giáo được phục hưng, chúng ta thấy rất nhiều nhà hảo tâm đã công đức tơ sống để xây chùa, xây cầu… Trùng tu trí thạch tứ kiều bi minh cho chúng ta biết một số người đã công đức tơ sống : “Nguyễn Trọng cúng thửa ruộng ở xứ Cửa Chùa và tơ sống trị giá 4 lượng. Nguyễn Kim Trà cúng 1 mảnh ruộng mạ ở xứ Bãi Cốt và tơ sống trị giá 5 lượng”… “Nguyễn Đình Dung, Nguyễn Thi Ái cúng một thửa ruộng xứ Mả Lễ và tơ sống tri giá 3 lượng. Sư bản chùa Huệ Thông cúng tơ sống trị giá 3 lượng” [89, 120]. Những người công đức vào chùa đều là hiện vật có giá trị lớn. Những hiện vật (tơ sống – PĐT) này có thể định giá bằng vàng. Như vậy, tơ lụa thời Mạc được dùng phổ biến, được nhiều người ưa chuộng đồng thời đây là loại thương phẩm có thể dễ dàng buôn bán trên thị trường.
Trầm hương của nước ta rất được các nước theo đạo Hồi ưa chuộng. Các thương nhân phương Tây thường mua trầm hương của Đại Việt về bán ở thị trường Trung Đông. Daniel Tavernier đến Đàng Ngoài buôn bán vào thế kỷ XVII từng viết “Tất cả những người theo đạo Hồi, chủ yếu là cư dân Thổ Nhĩ Kỳ và Arập, quý những thứ gỗ đó (trầm hương) lắm. Khi đến thăm nhau, họ đều mang theo một cái hộp đốt trầm hương, bỏ vào đấy một miến trầm nhỏ, nó toả ra khói và một mùi hương ngào ngạt. họ lấy khói đó để xông thơm bộ râu, hai tay dâng lên trời, miệng nói “Elhemed Allahh” nghĩa là đội ơn Thánh Ala” [40, 41].
Ngoài trầm hương và tơ lụa thì gốm sứ cũng là một mặt hàng rất được các thương nhân nước ngoài thu mua. Từ lâu gốm sứ Trung Quốc vốn đã chiếm lĩnh thị trường các nước Á Đông nhưng với chính sách hải cấm làm cho gốm sứ Trung Quốc trở nên khan hiếm. Bởi vậy, tranh thủ thời cơ đó Đại Việt đã xuất khẩu gốm sứ ra bên ngoài. “Trong số các quốc gia tham gia vào thị trường gốm thương mại thời kỳ này, gốm Việt Nam được xem là rực rỡ nhất. Sản phẩm của các lò gốm xứ Đông như: Chu Đậu, Ngói, Lão, Bá Thuỷ, Hùng Thắng…thuộc Hải Dương ngày nay, đã đạt được trình độ rất cao, có thể nói không thua kém đồ gốm Trung Quốc” [53]. Gốm Mạc không chỉ chiếm lĩnh thị trường các nước Đông Nam Á mà còn theo các thuyền buôn phương Tây đi đến trời Âu. Với những thay đổi về mẫu mã, kỹ thuật sản xuất tinh xảo, quy mô sản xuất lớn, gốm sứ Đại Việt đã chiếm lĩnh được thị trường khu vực và thế giới. Gốm chu Đậu, Hải Dương đã xuất khẩu trên 40 nước. Chu Đậu trở thành niềm tự hào của gốm Việt. Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng, tại Hội nghị quốc tế Việt Nam học lần thứ hai được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh có bà R. Brown dựa vào việc nghiên cứu gốm của Đại Việt đã đưa ra quan điểm “khoảng trống Mạc” của sản phẩm gốm sứ Việt Nam (và của các quốc gia khác) trong thế kỷ XVI. Tuy nhiên, dựa vào thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam cũng như các nhà khoa học Nhật Bản chúng tôi không đồng ý với quan điểm này. Giáo sư Kikuchi Sellchi – chuyên gia nghiên cứu gốm sứ nổi tiếng Nhật Bản cho rằng: “Đồ gốm có niên đại thế kỷ XVI – XVII được xác định là đã có mặt ở quanh các vùng Nagasaki, Osaka và Tokyo. Gốm hoa lam Việt Nam thuộc niên đại này cũng được tìm thấy trong các toà thành cổ, nhưng chủ yếu là ở các đô thị và dinh thự cổ. Ba vùng trên đều vốn là những đô thị phát triển và hoạt động thông thương vô cùng nhộn nhịp… Về hoạt động trao đổi và thông thương, có thể kể đến Nagasaki, Sakai và Edo, trong đó đặc biệt Nagasaki là cảng duy nhất được buôn bán với nước ngoài cả trước và sau khi chính sách toả quốc được thực hiện. Việc giao lưu với Việt Nam nở rộ nhất là thời kỳ các Châu ấn thuyền bắt đầu tiến hành thông thương vào đầu thế kỷ XVII. Thời kỳ này, vì có nhiều đồ gốm hoa lam Việt Nam được phát triển hiện ở gần khu vực cảng, nên người sử dụng có thể chính là những nhà buôn đã mua chúng về Nhật hay những nghệ nhân trà đạo. Mặt khác, nhiều đồ gốm hoa lam Việt Nam niên đại XVI – XVII được tìm thấy, trong đó có cả những chiếc bát mà người ta cho rằng phía Nhật đã đặt hàng tại Việt Nam, nên có thể nói mối quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản thời kỳ này đã phát triển” [16, 686 – 687]. Gốm Chu Đậu rất được ưa chuộng ở Nhật Bản thậm chí nó còn trở thành tiêu chuẩn để các nhà sản xuất gốm Nhật làm theo. Ở Nhật Bản cũng đã phát hiện được đồng tiền Quảng Hoà thông bảo. Gốm Mạc còn được “phát hiện tại di tích Pukisutosanion ở Malaysia và một số di tích ở Indonesia như Euku trên đảo Sumatra và Banten Lama ở miền Tây Java. Đáng chú ý nhất là những phát hiện ở Banten Lama (xưa là Banten). Đây là một thương cảng nổi tiếng của vương quốc Hồi giáo Banten, hoạt động rất phồn thịnh trong các thế kỷ XVI – XVII” [55, 669].
Tiểu kết chương 3
Hoạt động thương nghiệp thời Mạc phát triển hơn so với các giai đoạn trước đó. Sự phát triển này là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại khi mà vào thế kỷ XVI-XVII, ở các nước phương Tây nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển một cách mạnh mẽ. Sau các cuộc phát kiến lớn về địa lý, các thuyền buôn phương Tây đến phương Đông ngày càng nhiều. Đây cũng là thời kỳ hoàng kim của hệ thống hải thương châu Á, nền kinh tế phương Đông bắt đầu chịu sự thâm nhập và tác động mạnh mẽ bởi hệ thống kinh tế phương Tây.
Không thi hành chính sách “trọng nông ức thương” mà nhà Mạc luôn luôn tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển. Nhà Mạc cho sửa chữa cầu đường để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại buôn bán. Nhiều chợ được mở ra. Tranh thủ điều kiện thuận lợi khi mà nhà Minh (Trung Quốc) thi hành chính sách “hải cấm”, nhà Mạc luôn tạo điều kiện để thương nhân nước ngoài đến làm ăn buôn bán với Đại Việt. Một hệ thống cảng sông nằm sâu trong nội địa được hình thành. Hơn nữa sau một thời gian khủng hoảng, đầu thời Mạc tình hình chính trị xã hội dần dần ổn định, kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp phát triển cũng là một thuận lợi để thương nghiệp Đại Việt thời Mạc đi lên. Nhiều mặt hàng của Đại Việt theo thuyền buôn nước ngoài sang tận trời Âu như: gốm, trầm hương, tơ lụa… Sự phát triển của thương nghiệp cũng đã có tác động tích cực giúp nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, thương nghiệp thời Mạc còn rơi vào thế bị động tức là các sản phẩm thủ công sản xuất ra phải đợi các thuyền buôn phương Tây đến mua. Nếu thuyền buôn nước ngoài cập cảng nhiều thì sản phẩm thủ công sẽ được giá ngược lại nếu thuyền buôn nước ngoài không đến buôn bán thì sản phẩm thủ công làm ra tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay chúng ta chưa tìm thấy được tư liệu nào nói về các thuyền buôn Đại Việt thời Mạc vượt đại dương đến buôn bán với các nước phương Tây.
KẾT LUẬN
Giữa thế kỷ XV, nhà Lê sơ phát triển đến đỉnh cao dưới thời vua Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, bước vào đầu thế kỷ XVI, hào quang của một thời oanh liệt thịnh Lê dần bước đến lụi tàn, để lại hậu quả không nhỏ. Ruộng đất tập trung vào tay tầng lớp địa chủ lớn nhỏ, đặc biệt là quan lại đặc quyền đặc lợi được nhà nước ban cấp đã tạo điều kiện cho cát cứ phong kiến phát triển. Đội ngũ quan liêu ngày càng sa đoạ, vua kém đức kém tài, các phe phái tranh giành quyền lực liên tiếp diễn ra. Chính sử nhà Lê đã phải thừa nhận “giặc bên ngoài chưa yên, quyền thần đánh lẫn nhau, chém giết nhau dưới cửa khuyết, chốn Kinh sư đẫm máu” [18, 130]. Nhà Lê sơ suy yếu và lâm vào khủng hoảng triền miên, sự sụp đổ của nhà Lê là không thể tránh khỏi. Bởi vậy, sự thay thế bởi nhà Mạc là một tất yếu lịch sử.
Nhà Mạc sau khi lên ngôi đã có nhiều nỗ lực để duy trì một xã hội ổn định. Về mặt tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, nhà Mạc đã quản lý được xã hội Đại Việt và làm chủ trên một lãnh thổ rộng lớn từ vùng Tam Điệp trở ra Bắc, chính quyền trung ương chi phối đến tận cơ sở là làng xã và những vùng biên viễn. Đây cũng là triều đại không có chiến tranh xâm lược, “không có bóng dáng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, quan bảo hộ dù hình thức như chức “Đạt lỗ hoa xích” ở Thăng Long triều Trần cũng không” [32, 37]. Nhà Mạc bằng sách lược ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo để tránh một cuộc chiến không cân sức để tập trung cho việc khôi phục, ổn định lại đất nước.
Các vua đầu triều Mạc đã có nhiều chính sách để khôi phục và phát triển nền kinh tế đất nước. Anh hùng sinh ra trong thời loạn, Mạc Đăng Dung – vị vua sáng lập triều Mạc thừa hiểu những giá trị của độc lập dân tộc và sự phát triển đất nước. Ông và con cháu luôn luôn nỗ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh, mang lại cho nhân dân cuộc sống ấm no hạnh phúc. Chính nhà Mạc đã làm được nhiều điều cho quốc gia dân tộc.
Chúng ta biết rằng nhà Mạc lên thay nhà Lê khi mà nền nông nghiệp của Đại Việt đang lâm vào khủng hoảng. Hạn hán mất mùa liên tiếp diễn ra. Nạn bao chiếm ruộng, tước đoạt ruộng đất của người nông dân diễn ra một cách công khai, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất phát triển. Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ ngày càng gay gắt, người nông dân ngày càng bị bần cùng hoá. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra… Trong bối cảnh đó, nhà Mạc đã có nhiều chính sách để khôi phục và phát triển kinh tế đất nước, ổn định đời sống của nhân dân.
Về nông nghiệp: Nền nông nghiệp thời Mạc khá ổn định và phát triển. Nhiều năm được mùa liên tục. Với chính sách binh điền, nhà Mạc đã tạo cho binh lính ổn định cuộc sống, yên tâm phục vụ triều đình. Với một lực lượng binh lính khá đông đảo, chính sách binh điền đã phần nào đáp ứng được nhu cầu ruộng đất của nông dân làng xã. Chính sách binh điền cũng là chính sách chia sẻ quyền lợi của các thành viên trong hoàng tộc nhà Mạc với binh lính. Thời Mạc một số thành viên trong hoàng tộc, quan lại cao cấp bỏ tiền mua ruộng cúng vào chùa. Số ruộng này trở thành ruộng công của làng xã, không phải nộp thuế cho nhà nước, được chia cho các thành viên trong làng xã cày cấy. Như vậy, với việc bỏ tiền ra mua ruộng tư cúng vào chùa là một cách để giải quyết vấn đề “ruộng đất cho dân cày” một cách hoà bình. Ngoài số ruộng chia cho các thành viên trong cộng đồng làng xã, ruộng chùa còn để dành một số diện tích cho mọi người cày cấy để thu hoa lợi làm quỹ nghĩa thương giúp đỡ những người tàn tật, người già không nơi nương tựa, cứu đói… Hơn nữa, chúng ta thấy nông nghiệp thời Mạc là một nền nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuôi.
Về thủ công nghiệp: Thủ công nghiệp thời Mạc rất phát triển. Nhiều làng nghề thủ công đã ra đời và phát triển. Thủ công nghiệp ngày càng tách dần ra khỏi hoạt động sản xuất nông nghiệp. Người thợ thủ công được tự do đi lại để hành nghề. Họ rất được nhà nước tôn trọng. Những người thợ thủ công trong các Bách công cục cũng được nhà nước phong chức tước như những quan chức khác. Người thợ thủ công thời Mạc được tự do bán những sản phẩm do mình tạo ra. Hơn nữa họ còn được ghi tên tuổi vào sản phẩm của mình. Có thể nói thợ thủ công thời Mạc bắt đầu ý thức được quyền tự do cá nhân, “quyền tác giả”. Điều này thể hiện tư tưởng tự do tiến bộ thời Mạc.
Về thương nghiệp: Hoạt động trao đổi buôn bán thời Mạc diễn ra tấp nập trên bến dưới thuyền. Nhà Mạc cho mở nhiều chợ, sửa chữa cầu, đường để tạo thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá. Nhà Mạc còn mở cửa buôn bán với nước ngoài. Nhiều thuyền buôn ngoại quốc đã đến làm ăn buôn bán với Đại Việt. Đặc biệt thời Mạc đã hình thành một số hệ thống cảng sông nằm sâu trong nội địa thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán. Đây là một điều mới mẻ mà trước đó chưa có. Gốm Mạc theo thuyền buôn đi ra nhiều nước trên thế giới.
Mặc dù kinh tế phát triển khá toàn diện cả về nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp thì nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo có tác động thúc đẩy sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp. Bởi vì nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn nhân lực cũng như hậu phương cho nhà Mạc trong cuộc chiến tranh với Nam triều. Chính sách binh điền thời Mạc đã nói lên điều đó. Mặt khác, chúng ta thấy rằng các nhà sản xuất đương thời sau một thời gian làm ăn, khi có một ít vốn nhất định không đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh mà lại đầu tư số tiền đó vào mua ruộng hoặc cúng vào chùa. Đây chính là một hạn chế lớn khiến cho nền kinh tế hàng hoá kém phát triển.
Với sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp, kết cấu kinh tế làng xã thời Mạc có sự thay đổi. Làng Việt không còn đơn thuần là làng nông nghiệp nữa mà là làng nông – công – thương nghiệp, trong đó nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo; công – thương là nguồn lực bổ sung quan trọng.
Có thể nói, để phát triển kinh tế, nhà Mạc đã có nhiều chính sách tiến bộ khuyến khích sản xuất. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kim thì: “Nhà Mạc đã khơi dậy những tiềm năng, nhân tố phát triển mới mà mục tiêu cuối cùng và cao nhất không chỉ nhằm hướng tới việc xây dựng tiềm lực kinh tế mạnh có thể đương đầu với thế lực Nam triều, ngăn chặn những hiểm họa từ phương Bắc mà còn muốn cho muôn dân được no đủ ngõ hầu thực hiện trách nhiệm lớn nhất của đạo trị quốc là an dân” [53]. Như vậy, với tư tưởng đổi mới nhà Mạc đã xây dựng và phát triển một nền kinh tế khá toàn diện.
Tiếc rằng sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của nhà Mạc đã không thành khi nhà Mạc thất bại trong cuộc chiến tranh Nam Bắc triều. Vậy một vấn đề đặt ra là: Tại sao nhà Mạc lại thất bại trong cuộc chiến tranh Nam Bắc triều? Về vấn đề này đã có nhiều nhà nghiên cứu lý giải, nhưng theo chúng tôi nhà Mạc thất bại bở các nguyên nhân sau: Trước hết có hiện tượng mất đoàn kết trong triều đình nhà Mạc như vụ Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi, vụ Lê Bá Ly… Tiếp đến, chúng ta phải kể đến các vị vua nối nghiệp về sau không giữ được những phẩm chất tốt đẹp của các bậc tiên đế cũng như các vị vua về sau Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp khi nối ngôi còn rất nhỏ. Đặc biệt năm 1580, Khiêm Vương Mạc Kính Điển một trụ cột của nhà Mạc qua đời khiến cho “lòng người trong cõi dao động”[23, 327]. Đó là chưa kể những sai lầm về mặt quân sự. Bởi theo những tư liệu bia ký còn lại thì cuối năm 1592 giữa nhà Mạc với nhà Lê-Trịnh đang diễn ra những trận giao tranh quyết liệt chưa phân thắng bại… Nhưng nếu xét dưới góc độ kinh tế thì sự thất bại của nhà Mạc chính là sự thất bại của các tầng lớp quý tộc công thương đang lên trước tầng lớp địa chủ quan liêu thủ cựu. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã khẳng định “Nếu Dương Kinh của nhà Mạc được xây dựng thành công, nếu nhà Mạc tồn tại lâu hơn nữa thì Đại Việt lần đầu tiên có kinh đô-cảng thị (port-capital) công thương nghiệp miền Hải Dương và cả nước phát triển mạnh mẽ hơn và chắc trong lòng xã hội quân chủ quan liêu đã nảy sinh được những nhân tố mới của một phương thức sản xuất mới, kinh doanh mới, quản lý mới… Tiếc thay nhà Mạc đã thổi “tiếng kèn ngập ngừng” trong hành động hướng biển và hướng ngoại và các phần tử thủ cựu nhất của hàng ngũ quan liêu-địa chủ-sĩ phu Nho giáo đã tập hợp nhau ở xứ Thanh-nơi dân sinh dân trí còn kém phát triển hơn cư dân châu thổ Bắc Bộ-để quay ngược bánh xe lịch sử, dưới hình thức “trung hưng nhà Lê” cùng cái nhìn hướng nội và trọng nông trọng sĩ, tôn sùng Nho giáo” [103, 212].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Dương Văn An (2009), Ô Châu cận lục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá, Huế.
- Phạm Thị Phương Anh (2008), Khảo sát truyền thuyết về Mạc Đăng Dung ở vùng Kiến Thụy – Hải Phòng, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Trần Thị Kim Anh (2001), “Bia chợ xã Đông Ngạc” – thêm một bài văn bia thời Mạc, Tạp chí Hán Nôm số 2(47).
- Ban Liên lạc họ Mạc (2007), Hợp biên thế phả họ Mạc, Nxb Dân tộc, Hà Nội.
- Tống Thanh Bình (2009), Nhà Mạc với công cuộc ổn định xã hội Đại Việt từ 1527 đến 1546, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Vinh.
- Nguyễn Đình Chiến (1999), Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn ở thế kỷ XV-XIX, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
- Đào Công Chính (1676), Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục, Dịch và chú giải Hoàng Văn Lâu.
- Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí – Tập I, Nxb Sử học, Hà Nội.
- Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí – Tập II, Nxb Sử học, Hà Nội.
- Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí – Tập III, Nxb Sử học, Hà Nội.
- Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí – Tập IV, Nxb Sử học, Hà Nội.
- Ngô Kim Chung (1975), Ruộng đất tư hữu và những hình thức khai thác ruộng đất tư hữu ở Việt Nam thời phong kiến, Tạp chí Kinh tế, số 85.
- Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2007), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
- Nguyễn Trí Dĩnh (chủ biên, 2010), Kinh tế hàng hoá Thăng Long-Hà Nội đặc trưng và kinh nghiệm, Chương trìn khoa học cấp nhà nước KX.09, Nxb Hà Nội.
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường ĐH KHXHNV, Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI – XVII, Nxb Thế giới.
- Đại Việt sử ký toàn thư – tập II, (2003), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
- Đại Việt sử ký toàn thư – tập III, (2003), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Đầu (1990), Việt Nam Quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hải Đoan (2004), Sơ lược về văn học đời Mạc, Tạp chí Cửa biển, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, số 75.
- Nguyễn Tiến Đoàn (2001), Tập khoán ước làng xã thời Mạc qua một cuốn sách truyền gia, in trong Thông báo Hán Nôm năm 2001, tr 139-155.
- Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử – tập III, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Mạc Đường (2005), Góp phần đổi mới quan điểm đánh giá vương triều Mạc, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
- Thu Hiền (2004), Một số nhận định về Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, Tạp chí Cửa biển, Hải Phòng.
- Ngọc Hoa (2004), Nguyễn Bỉnh Khiêm với vương triều Mạc, Tạp chí Cửa biển, Hội Liên hiệp văn học Nghệ thuật Hải Phòng, số 75.
- Mạc Hữu Hoa – Mạc Văn Viên (1996), Chính sách kinh tế của nhà Mạc qua tư liệu điền dã, trong sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Kỷ yếu hội thảo năm 1994.
- Lê Văn Hòe (1959), Hồ Quý Ly Mạc Dăng Dung, Quốc học thư xã, Hà Nội.
- Phạm Đình Hổ (1972), Vũ trung tùy bút, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Hội đồng Lịch sử Thành phố Hải Phòng (1990), Địa chí Hải Phòng, Hải Phòng.
- Hội đồng Lịch sử Thành phố Hải Phòng (1995), Lịch sử Đảng bộ xã Ngũ Đoan, Nxb Hải Phòng.
- Hội đồng lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học (2005), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hải Phòng.
- Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (1998), Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, Hội Sử học Hải Phòng.
- Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng (2004), Tạp chí Cửa biển, số 75/2004
- Mai Hồng (2002), Cụm văn bia chùa Đại Bi (Đông Hưng – Thái Bình), Tạp chí Hán Nôm số 06(55).
- Hồng Đức thiện chính thư (1959), Hà Nam ấn quán, Sài Gòn.
- Phạm Xuân Huyên (1995), Sự nghiệp các chúa Trịnh trong lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Huyện Ủy – UBND huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) (2009), Kiến Thụy xưa và nay, Nxb Lao động.
- Đỗ Đức Hùng (1996), Một vài nét về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Mạc thế kỷ XVI, trong sách Vương triều Mạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
- Jean-Baptiste Tavernier (2005), Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài, Nxb Thế giới, Hà Nội.
- Nguyễn Hải Kế (2005) “Hải Phòng vùng đất bị lãng quên thời Lê Sơ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.
- Phạm Khang (2008) Chúa Trịnh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2006), Văn học Việt Nam, Thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Vũ Ngọc Khánh (2008), Người có vấn đề trong lịch sử nước ta, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm (2003), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn học, Hồ Chí Minh.
- Lưu Văn Khuê, Ngô Đăng Lợi (2007), Mạc Đăng Dung – tiểu thuyết Lịch sử, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
- Kikuchi Seiichi (2010), Nghiên cứu đô thị cổ Hội An từ quan điểm Khảo cổ học lịch sử, Nxb Thế giới, Hà Nội.
- Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Kim (2003), Nhật Bản với châu Á những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế – xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Văn Kim (2007), Vị trí của Phố Hiến và Đomea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVII (Tư liệu lịch sử, điều tra điền dã và khảo cổ học), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4(372).
- Nguyễn Văn Kim – Nguyễn Mạnh Dũng (2007), Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt – Thực tế lịch sử và nhận thức, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 8(376).
- Nguyễn Văn Kim (2010), Kinh tế công thương thời Mạc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 12(416).
- Đỗ Thị Thuỳ Lan (2006), Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVI – XVIII – Vị trí cửa sông và cảng Domea, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 11.
- Đỗ Thị Thùy Lan (2008), Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVI – XVIII Batsha và mối liên hệ với quê hương nhà Mạc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.
- Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2000), Từ điển nhân vật Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (thế kỷ XV), Nxb Văn Sử Địa.
- Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Phan Huy Lê (1962), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb Sử học, Hà Nội.
- Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Quang Ngọc (1995), Gốm Bát Tràng thế kỷ XIV-XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội.
- Tạ Ngọc Liễn (chủ biên), Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Đức Nhuệ, Nguyễn Minh Tường, Vũ Duy Mền (2007), Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XVI, Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Long (2007), Chuyện lịch sử Việt Nam từ năm 1533 – 1793; Cuộc trung hưng gian khó, Nxb Thế giới, Hà Nội.
- Ngô Đăng Lợi, Trần Thị Vinh, Nguyễn Quang Ân (1996), Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Hà Nội.
- Ngô Đăng Lợi (2004), Sách lược ngoại giao của vương triều Mạc, Tạp chí Cửa biển, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, số 75.
- Hoàng Lưu (2004), Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, Tạp chí Cửa biển, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, số 75.
- Vũ Duy Mền (1996), Một số vấn đề về làng xã thời Mạc, trong sách Vương triều Mạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Mĩ thuật thời Mạc (1993), Viện Mỹ thuật, Hà Nội.
- Nguyễn Đức Nghinh (1979), Chợ Chùa ở thế kỷ XVII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4(187).
- Hữu Ngọc, Nguyễn Đức Hiền (sưu tập và biên soạn) (1998), La Sơn Yên Hồ – Hoàng Xuân Hãn – Tập II, trước tác, phần II – Lịch sử, Nxb Giáo dục.
- Quang Ngọc (2004), Gốm sứ thời Mạc, Tạp chí Cửa biển, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, số 75.
- Nguyễn Quang Ngọc (2007), Domea (Đô-mê-a) trong hệ thống thương mại Đàng thế kỷ XVII-XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 10(378.
- Lại Cao Nguyên (2004), Vụ tranh chấp giữa Trịnh Tùng và Trịnh Cối, Tạp chí Xưa và nay, số 217.
- Nguyễn Tá Nhí (1997), Việt sử diễn âm, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Nguyễn Đức Nhuệ (1996), Vài nét về công thương nghiệp thời Mạc, trong sách Vương triều Mạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đỗ Văn Ninh (1983), Thành cổ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đỗ Văn Ninh (1996), Tiền tệ thời Mạc, trong sách Vương triều Mạc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Đỗ Văn Ninh (2004), Thương cảng Vân Đồn, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
- Nguyễn Danh Phiệt (2004), Việt Nam thời Mạc – cuộc chiến không khoan nhượng giữa hai tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh và Mạc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9.
- Nguyễn Huy Phúc, Lê Văn Bảy (2006), Lê triều dã sử, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
- Phạm Quốc Quân, Trần Phương (1993), Dấu tích vật chất khu: Chợ Minh Thị, xã Toàn Thăng huyện Tiên Lãng (Hải Phòng), trong sách Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Phạm Quốc Quân, Nguyễn Văn Sai (1993), Đào thám sát ở An Quý -Cộng Hiền (Vĩnh Bảo – Hải Phòng), trong sách Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI -XVII, tập II, thế kỷ XVI – XVIII, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Trương Hữu Quýnh (2009), Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Sơn (1997), Di tích thời Mạc vùng Dương Linh, Hải Phòng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 06/1991.
- Đinh Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đinh Khắc Thuân (1997), Văn bia thời Mạc và đóng góp của nó trong việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI, Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Hán Nôm, Hà Nội.
- Đinh Khắc Thuân (2001), Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đinh Khắc Thuân (2010), Văn bia thời Mạc, Nxb Hải Phòng.
- Đinh Khắc Thuân, Phan Đăng Thuận (2011), Một địa bạ thời Mạc, Tạp chí Hán Nôm số 2(105).
- Thi Nham Đinh Gia Thuyết (1925), Thuyết Mạc, Nhà in Mạc Đình Tứ.
- Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Sử học (1996), Vương triều Mạc 1527 – 1592, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà Nội – Văn phòng BCĐ Quốc gia 1000 năm Thăng Long – Hội Sử học Hà Nội (2010), Kỷ yếu hội thảo khoa học Vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, Tài liệu lưu hành tại hội thảo.
- Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng (2002), Một số di sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng, tập II, Nxb Hải Phòng.
- Hoàng Anh Tuấn (2007), Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII (qua các nguồn tư liệu phương Tây), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1(369) và số 2(370).
- Nguyễn Hữu Tưởng (2002), Hai tấm bia Trạng Trình soạn mới phát hiện ở Thái Bình, Tạp chí Hán Nôm số 06(55).
- Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Viện Khoa học xã hội – Trung tâm Nghiên cứu Hán Nôm (2000), Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hoá dân tộc, Nxb Đà Nẵng.
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006), Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Trần Thị Vinh (1996), Nhà Mạc đối với nền kinh tế công thương nghiệp (Thế kỷ XVI – XVII), trong sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Kỷ yếu hội thảo về nhà Mạc năm 1994.
- Phạm Thị Thuỳ Vinh (2011), Xác lập tên 36 phường của kinh thành Thăng Long từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, Tạp chí Hán Nôm số 2(105).
- Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Trần Quốc Vượng (1998), Hải Phòng nhìn từ thủ đô Hà Nội, trong sách Việt Nam cái nhìn địa – văn hoá, Nxb Văn hoá dân tộc – Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.
- Trần Quốc Vượng (2003), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thế kỷ XVI, trong sách Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học.
- Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, Nxb Sử học.
- Keith Weller Taylor, John K. Whitmore (1995), Essay into Vietnamese pasts, SEAP, Publication.
- Website: www.mactoc.com; www.mactrieu.vn.com; www.hoaphuongdo.vn
- Hội đồng Mạc tộc Việt Nam (2009), Nhà Mạc theo dòng sử Việt, tập 1, 2, 3, 4, 5.
- Xưởng phim truyền hình – Đài phát thanh truyền hình Hải Phòng (2004), Dương Kinh một thửa, tập 1, 2.
PHỤ LỤC
V¬ng triÒu m¹c sù kiÖn vµ thêi gian
1483: Giờ ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão, niên hiệu Hồng Đức thứ 14, Mạc Đăng Dung ra đời.
– 20 tuổi từ đô lực sĩ túc vệ thăng chức đô chỉ huy sứ.
– 37 tuổi thống lĩnh binh lực nước Đại Việt.
– 42 tuổi đại thắng quân Trịnh ở Tây Đô (Thanh Hóa, 10/1525).
– 44 tuổi lập ra vương triều Mạc.
1527: Vua Lê Cung Hoàng ra tuyên chiếu nhường ngôi vua cho Mạc Đăng Dung.
1528: Mạc Đăng Dung cho đúc tiên thông bảo bằng đồng và kẽm để tiêu dùng trong cả nước.
1529: Mở kho thi tiến sĩ lấy đỗ 27 người. Tháng 12, nhường ngôi cho con trai là Mạc Đăng Doanh, tự xưng Thái Thượng hoàng.
1530: Mạc Đăng Dung về quê ở làng Cổ Trai để xây dựng Dương Lăng
1540: Mạc Đăng Doanh băng hà. Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại Đông Đô để lập cháu nội Mạc Phúc Hải lên ngôi vua.
1541: Ngày 22 tháng 8 năm Nhâm Tuất, Mạc Đăng Dung băng hà và di chúc “không được làm đàn chay”.
1546: Mạc Phúc Hải băng hà, ở ngôi vua 6 năm. Mạc Phúc Nguyên lên ngôi vua lúc 6 tuổi. Hoàng thân nhà Mạc chia làm hai phái: phái ủng hộ vua trẻ (Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính), phái chống lại vua trẻ lập triều đình riêng ở huyện Ngự Thiện (nay thuộc tỉnh Thái Bình) (Mạc Văn Minh và Phạm Tử Nghĩa). Nguyễn Kim phò vua Lê đánh nhà Mạc trên đất Thanh Hóa thắng lợi. Trịnh Kiểm đầu độc giết chết Nguyễn Kim, hãm hại Nguyễn Uông, Nguyễn Ủ Dĩ, con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng hoảng sợ giả câm điếc để khỏi bị Trịnh Kiểm giết hại. Sau đó Trịnh Kiểm xây dựng cung điện, thành lũy ở Thọ Xuân (Thanh Hóa) và lập ra Nam triều.
1555: Quân Trịnh đánh thắng quân nhà Mạc tại Thanh Hóa
1557: Quân Trịnh lại đánh bại quân nhà Mạc trên đất Thanh Hóa
1559: Quân Trịnh kéo đại quân ra đất Kinh Bắc, Hưng Hóa, Hải Dương đánh nhà Mạc. Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là bà Bảo Ngọc (vợ Trịnh Kiểm) xin Trịnh Kiểm vào khai hoang lập ấp ở làng Ai Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Trị)
1564: Mạc Phúc Nguyên bị bệnh đậu mùa và băng hà lúc 24 tuổi. Mạc Mậu Hợp lên ngôi vua lúc 2 tuổi. Việc triều chính do hai ông chú lo liệu (Mạc Kính Điển và Mạc Đôn Nhượng).
1565: Mạc Kính Điển lại mang đại quân đi diệt họ Trịnh bằng đường bộ không kết quả phải rút lui về Đông Đô.
1578: Vua Mạc Mậu Hợp bị sét đánh ngay trong cung mang tật “bán thân bất toại”. Theo sử nhà Lê, Mạc Mậu Hợp ăn chơi, sa đọa, nhiều người tài xin thôi chức đi ở ẩn (Giáp Trưng, Vũ Đảng, Trần Văn Nghi, Mạc Đôn Nhượng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thượng thư bộ Lễ Đạm Xuyên…).
1580: Mạc Kính Điển, một cột trụ chính của vương triều Mạc qua đời. Quân Trịnh Tùng thừa cơ đánh mạnh ra phía Bắc. Nhiều tướng nhà Mạc bị thua (Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn, Mạch Kính Chi). Mạc Đôn Nhượng củng cố binh lực, đem đại quân vào Tây Đô diệt Trịnh, nhưng thất bại phải rút quân.
1592: Ngày 22 tháng 11, Mạc Mậu Hợp đưa con trai là Mạc Toàn lên ngôi vua và tự mình ra cầm quân đánh quân Trịnh bị thất bại nặng nề. Quân Trịnh chiếm được Đông Đô (tức Thăng Long), Mạc Mậu Hợp bị quân Trịnh giết ở Gia Lâm. Vương triều Mạc kết thúc giai đoạn 65 năm đóng đô ở Đông Đô.
1593: Năm vạn quân Trịnh Tùng tiến lên Lạng Sơn tiêu diệt quân của Mạc Toàn vừa mới xây dựng lại chưa bao lâu. Quân nhà Mạc đại bại và tan rã. Mạc Toàn bị quân Trịnh bắt và đem về chém đầu ở bến đò Thảo Tân thuộc Kinh Môn – Hải Dương. Mạc Kính Chỉ cát cứ ở vùng Chí Linh, Đông Triều để chống quân Trịnh. Nhưng, cũng bị quân Trịnh tiêu diệt và Mạc Kính Chỉ cũng bị chém đầu ở bến đò Thảo Tân ngay từ ngày 17 tháng giêng.
1594: Mạc Kính Cung xây dựng căn cứ ở vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng tự xưng là Càn Thống hoàng đế, đóng đô ở đất Cao Bình (nay thuộc huyện Hòa An, thị xã Cao Bằng). Mạc Kính Cung cho mở chợ lớn để buôn bán gọi là Chợ Thành (Háng Sánh), mở trường học, khoa thi, khuyến khích nông trang, các nghề thủ công, làm cầu đường đi lại giữa các vùng, lập ra nhiều chợ để nhân dân buôn bán, chiêu mộ binh mã, luyện tập quân sự, thiết lập bộ máy hành chính, tu chỉnh, xây lắp thành lũy, giảm nhẹ sưu thuế, tổ chức hội lễ, xử phạt nặng quan chức nhũng nhiễu dân. Mạc Kính cung trong 29 năm (1594 – 1623) làm vua đã quy tụ được nhiều người, hai lần kéo quân về cố chiếm lại Đông Đô, nhưng đều thất bại.
1623: Mạc Kính Khoan đóng ở Thái Nguyên, nay lại chuyển về Cao Bằng tự xưng vua lấy hiệu là Long Thái, lập cung điện bằng tranh ở làng Vũ Toàn và biệt lập với Mạc Kính Cung. Nhân lúc Trịnh Tráng nối nghiệp Trịnh Tùng, Trịnh Xuân nổi loạn, Mạc Kính Khoan từ Cao Bằng đem quân về cướp lại kinh thành bị thất bại.
1624: Quân Trịnh tiến công Cao Bằng, quân nhà Mạc thất bại, Mạc Kính Cung bị bắt đưa về Đông Đô xử tội, giữa đường Kính Cung tự vẫn. Kính Khoan dâng biểu xin hàng quân Trịnh Tráng, được nhà Lê phong tước Thái úy Thông quốc Công.
1638: Mạc Kính Khoan bị bệnh chết ở Cao Bằng. Con trai là Mạc Kính Vũ lên thay, tự xưng vương hiệu là Thuận Đức, không báo tin cha mất cho nhà Lê, không chịu nộp cống cho quân Trịnh và mưu đồ chống lại quân Lê – Trịnh.
1639: Quân Trịnh lại khởi binh đánh Mạc Kính Vũ ở Lạng Sơn, Cao Bằng bị thất bại phải rút quân về xuôi.
1644: Quân Trịnh Tráng lại đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng bị thất bại phải rút quân về xuôi một lần nữa.
1677: Trịnh Tạc mang đại binh cùng các tướng tài như Đinh Văn Tả, Lê Châu, Lê Hiếu, Nguyễn Hữu Đang đánh bại được Mạc Kính Vũ trên đất Cao Bằng. Quân đội nhà Mạc tan vỡ. Theo tư liệu mới công bố, một bộ phận nhà Mạc còn tiếp tục chiến đấu ở thành Phục Hoà cho đến năm 1685.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
- Quan hệ của nhà Mạc với nhà Minh thế kỷ XVI được giảng dạy ở các trường đại học như thế nào?, Tạp chí Xưa-Nay số 257, tháng 6-2006
- Vương triều Mạc trong chương trình sách giáo khoa mới như thế nào?, Tạp chí Thông tin khoa học-công nghệ Nghệ An số 3/2007
- Họ Mạc ở Nghệ An, Tạp chí Thông tin khoa học-công nghệ Nghệ An số 5/2007
- Mấy ý kiến về Vương triều Mạc trong sách giáo khoa, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 59 tháng 08/2010.
- Bác Hồ với họ Mạc ở xã Minh Tâm (Cao Bằng), Tạp chí Thông tin khoa học-công nghệ Nghệ An số 4/2010
- Những điểm tương đồng hội ngộ giữa Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ, viết cùng TS Trần Thị Thanh Vân, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, tháng 9/2010
- Hậu duệ họ Mạc ở Nghệ An, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, tháng 9/2010
- Pho tượng chùa Hưng Khánh và dòng họ Khoa ở Đằng Lâm, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, tháng 9/2010.
- Tình hình giảng dạy về Vương triều Mạc ở bậc trung học phổ thông hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, tháng 9/2010.
10. Một địa bạ thời Mạc, viết cùng PGS.TS Đinh Khắc Thuân, Tạp chí Hán Nôm số 2 (105)/2011.
11. Nghiên cứu về Vương triều Mạc thời đổi mới, viết cùng TS Trần Thị Thanh Vân, Tạp chí Xưa-Nay số385 tháng 8 năm 2011.
12. Bức đại tự nói về nguồn gốc của một dòng họ, Tham luận tại Hội nghị Thông báo Hán Nôm năm 2011.bán hàng hoá giữa các vùng miền
Viết bình luận
Tin liên quan
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- TỌA ĐÀM VỀ HAI BIA ĐÁ TÌM THẤY TẠI HUYỆN TIÊN LÃNG, TP. HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.