- Đang online: 1
- Hôm qua: 918
- Tuần nay: 15275
- Tổng truy cập: 3,368,861
KINH TẾ ĐẠI VIỆT THỜI MẠC (1527 )
- 1393 lượt xem
KINH TẾ ĐẠI VIỆT THỜI MẠC (1527 – 1592)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH – 2011
(Tiếp theo kỳ 1)
Chương một
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP ĐẠI VIỆT THỜI MẠC
1.1. Vài nét tình hình kinh tế nông nghiệp cuối thời Lê sơ
1.1.1. Chính sách về ruộng đất
Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế thiết lập nên vương quyền của dòng họ Lê. Nhằm khôi phục và phát triển nông nghiệp, nhà Lê đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích sản xuất.
Cùng với chính sách quân điền, triều đình Lê sơ còn ban cấp ruộng đất đại quy mô của nhà nước cho tầng lớp quan lại cao cấp. Về danh nghĩa nhà nước chỉ lấy ruộng đất công mới tịch thu được của quân Minh, nguỵ quan và quý tộc Trần bị tuyệt “nhưng trong thực tế những ruộng đất ấy có thể là một phần ruộng vô chủ bỏ hoang, nhưng phần lớn là đã do nông dân địa phương tự chiếm giữ lấy để cày cấy trong khi chủ nhân của nó (là quan lại nhà Minh, nguỵ quan, quý tộc nhà Trần…) đã bị chết hay bỏ trốn” [54, 116]. Năm 1477 nhà Lê quy đinh mức độ ban cấp cụ thể như sau:
Chức tước |
Thế nghiệp điền (mẫu) |
Thế nghiệp thổ (mẫu) |
Ruộng vua ban (mẫu) |
Bãi dâu (mẫu) |
Đầm (ban bằng tiền) (quan) |
Tế điền (mẫu) |
1. Quý tộc, quan lại cao cấp |
|
|
|
|
|
|
Thân vương |
600 |
40 |
1000 |
150 |
80 |
300 |
Tự thân vương, thân vương thế tử… |
450 |
36 |
500 |
110 |
70 |
250 |
Quốc công |
400 |
34 |
400 |
100 |
60 |
200 |
Quận công |
350 |
32 |
300 |
90 |
50 |
180 |
Hầu |
300 |
30 |
260 |
80 |
40 |
160 |
Bá |
200 |
28 |
230 |
70 |
30 |
140 |
Chánh nhất phẩm |
|
18 |
100 |
30 |
|
70 |
Tòng nhất phẩm |
|
16 |
80 |
20 |
|
60 |
Chánh nhị phẩm |
|
14 |
60 |
15 |
|
50 |
Tòng nhị phẩm |
|
12 |
50 |
10 |
|
40 |
Chánh tam phẩm |
|
10 |
40 |
|
|
35 |
Tòng tam phẩm |
|
8 |
30 |
|
|
20 |
Chánh tứ phẩm |
|
6 |
20 |
|
|
13 |
Tòng tứ phẩm |
|
4 |
15 |
|
|
10 |
2. Tòng phụ, nữ quan |
|
|
|
|
|
|
Thân công chúa |
450 |
36 |
600 |
100 |
70 |
200 |
Quận thượng chúa |
|
18 |
80 |
20 |
|
60 |
Quận chúa |
|
16 |
50 |
16 |
|
50 |
Á quận quân |
|
14 |
40 |
12 |
|
40 |
Quận quân |
|
12 |
35 |
8 |
|
35 |
Á quận quân |
|
10 |
30 |
|
|
30 |
Huyện thượng quân |
|
8 |
25 |
|
|
25 |
Huyện quân |
|
6 |
20 |
|
|
20 |
Á huyện quan |
|
4 |
15 |
|
|
15 |
Tam phi |
|
30 |
300 |
60 |
|
150 |
Tam chiêu |
|
24 |
200 |
50 |
|
100 |
Tam tu |
|
21 |
150 |
45 |
|
90 |
Tam sung |
|
20 |
100 |
30 |
|
80 |
Lục chức nữ quan |
|
|
|
|
|
|
– Nhất cấp |
|
18 |
70 |
15 |
|
70 |
– Nhị cấp |
|
14 |
40 |
10 |
|
40 |
– Tam cấp |
|
8 |
30 |
|
|
30 |
– Tứ cấp |
|
7 |
25 |
|
|
25 |
– Ngũ cấp |
|
6 |
20 |
|
|
20 |
– Lục cấp |
|
5 |
15 |
|
|
15 |
(Nguồn: Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam, Nxb Thế Giới, Hà Nội-2009, tr 191-193)
Nhìn vào bảng số liệu này, chúng ta có thể thấy nhà nước trung ương ban hành một quy chế đầy đủ về việc cấp ruộng lộc cho các quý tộc, quan lại. Họ được ban cấp với một số lượng ruộng đất lớn lên đến hàng trăm mẫu. Chính sự phân phong ruộng đất với số lượng lớn đã tạo cơ sở cho sự cát cứ phong kiến mỗi khi chính quyền trung ương suy yếu.
Cuối thế kỷ XV, chính quyền trung ương suy yếu, các triều vua liên tục thay đổi. Mỗi triều vua mới lên đều ban thưởng cho các công thần đã đưa mình lên ngai vàng trong khi đó ruộng đất công có hạn. Bởi vậy năm Canh Ngọ (1510), vua Lê Tương Dực (1509 – 1516) đã ra sắc chỉ nêu rõ: “Khi ban cấp các hạng ruộng đất, bãi dâu, ao đầm thì cho phép các xứ cấp vào những chỗ còn lọt ở dân, chưa vào sổ quan; cho quan Thái bộc tự xét mình đi tìm, làm bản tâu lên lên, giao xuống Hộ bộ và Thừa ty xứ đó cho khám xét, làm bản tâu lên, đợi nhận chỉ chuyển giao cho Lễ bộ vâng mệnh thi hành, làm sắc chỉ cấp cho các công, hầu, bá theo thứ bậc khác nhau” [18, 85].
Với sắc lệnh này, nhà nước công khai cướp đoạt ruộng đất công của làng xã, điều này đã ảnh hưởng đến chính sách quân điền, thu hẹp ruộng đất khẩu phần vốn được chia ít ỏi của người dân.
Lợi dụng “thánh chỉ” của thiên tử, bọn quan lại, địa chủ công khai cướp đoạt ruộng đất công của làng xã, đe doạ đời sống nhân dân. Sách “Hồng Thuận Trị bình bảo phạm” của triều đình đã phải thừa nhận: “Đời Đoan Khánh, bọn hoạn quan thọc vào chính sự, kẻ ngoại thích mặc sức chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn, nông tang tiêu tàn mất nghiệp, phong tục ngày một suy đồi, thực rất đáng thương tâm” [18, 77]. Bọn quan lại này không đợi đến lúc “ban cấp và lập giới mốc” xong, đã “gặt cướp thóc lúa”, “dung nạp kẻ gian ra vào, ức hiếp lấy ruộng đất của dân, để mọn dân thất nghiệp”.
Theo gia phả và bia ký còn lại, chúng ta thấy thời gian này đã hình thành hàng loạt quan lại kiêm địa chủ lớn ở nhiều địa phương. “Gia phả họ Nguyễn (Hà Nội) ghi: “Trúc khê hầu Nguyễn Độ vào năm Cảnh Thống thứ 3 (1500) đã có đến 1930 mẫu ruộng các loại, trong đó có 514 mẫu 5 sào ruộng thế nghiệp; gia phả họ Nguyễn Vĩnh ghi thời Quang Thiệu (1516 – 1522) gia đình đã có tất cả 2670 mẫu ruộng; gia phả họ Nguyễn Lý ở Gia Miêu, huyện Hà Trung (Thanh Hoá) ghi vào cuối thời Lê sơ, gia đình được cấp tất cả hơn 2073 mẫu, 5 sào, 5 thước ruộng thế nghiệp và con cháu Nguyễn Lý thì được ban riêng 50 mẫu ruộng lộc để thờ cúng tổ tiên đời đời; gia phả họ Ngô ở Động Bàng (Thiệu Yên – Thanh Hoá) ghi: Dực quốc công Ngô Bang từng nói: “Tự điền của tiền thế có hơn 1 vạn mẫu, trữ được vài trăm vạn đấu thóc”. Một tấm bia ở Nghệ An còn ghi rõ các khu ruộng của Cương quốc công Nguyễn Xí, giải ra trên địa bàn 93 xã thuộc 25 huyện với tổng diện tích 5135 mẫu. Gia phả dòng họ Lê Thọ Vực cũng ghi rõ tổng số ruộng của 2 cha con là 2366 mẫu. Các quý tộc tôn thất cũng trở thành những địa chủ lớn, tập trung trong tay nhiều ruộng đất. Tất nhiên một phần lớn trong số ruộng đất này là ruộng thế nghiệp. Theo bia, công chúa tự điền các xứ liệt hậu thì tổng diện tích ruộng đất thờ tự của một công chúa nhà Lê (bia dựng vào năm Hồng Thuận thứ 5 – 1514) là 116 mẫu 1 sào 2 thước” [83, 245 – 246].
Qua những trích dẫn trên, chúng ta thấy rằng các quý tộc quan lại, tôn thất ngày càng chiếm nhiều ruộng đất do chế độ lộc điền ưu đãi đối với họ. Chính nhờ sự ưu đãi này mà địa chủ quan lại luôn luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt ruộng đất công của làng xã. Từ đó hình thành nên các tập đoàn phong kiến ở địa phương. Chúng ra sức củng cố lực lượng để tranh giành, giết hại đánh chém lẫn nhau trong khi đó nhà vua ngày càng bạc nhược. Đây cũng là một phần nguyên nhân làm cho triều đình Lê sơ lâm vào khủng hoảng.
1.1.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp
Ruộng đất bị các quan lại địa chủ tìm mọi cách để cướp đoạt trong khi đó chính quyền trung ương suy yếu không đủ sức để bảo vệ sản xuất, chống thiên tai. Các phe phái phong kiến chỉ lo đánh nhau để tranh giành quyền lợi. Phe phái nào cũng muốn đưa người của mình lên ngôi vua để bảo vệ quyền lợi cho bản thân mình, gia đình mình, dòng họ của mình. Họ đâu còn chăm lo đến sản xuất, chăm lo đến đời sống của nhân dân. Bởi vậy mất mùa liên tiếp diễn ra. Chỉ tính từ năm 1499 đến năm 1522, trong vòng 23 năm mà đã có 14 năm thiên tai mất mùa liên tiếp. Tháng 3 năm Hồng Thuận thứ 4 (1512), hạn hán gay gắt và tiếp theo đó là một nạn đói lớn. Năm Quý Dậu (1513), mùa hạ tháng 6, ngày mồng 7 nước lũ, vỡ đê phường Yên Hoà thông vào Hồ Tây, trong nước đói to. Do chỉ lo tranh chấp ngôi vị mà không quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, không đưa ra được một biện pháp hữu hiệu nào để cứu dân. Hậu quả là năm Đinh Sửu (1517): “Trong nước đói to, xác người chết đói nằm gối lên nhau. Những nơi trải quan binh lửa như Đông Triều, Giáp Sơn ở Hải Dương, Yên Phong, Tiên Du, Đông Ngàn ở Kinh Bắc là càng đói dữ” [18, 137]. Sưu cao thuế nặng, mất mùa liên tiếp diễn ra, đời sống của nhân dân cơ cực lầm than trong khi đó giai cấp phong kiến sống sa đoạ đã làm cho mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp thống trị càng sâu sắc. Bởi vậy muốn tồn tại bắt buộc người dân phải vũ trang đứng lên chống lại chế độ quân chủ đã trở nên thối nát. Chính các cuộc khởi nghĩa nông dân càng làm cho nhà Lê sơ suy yếu nhanh chóng và sụp đổ; nhà Mạc được thiết lập. Vậy sau khi ra đời nhà Mạc đã có những chính sách gì để khôi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp Đại Việt?
1.2. Chính sách về ruộng đất của nhà Mạc
Nhà Mạc được thiết lập trong hoàn cảnh xã hội Đại Việt lâm vào khủng hoảng trầm trọng do chính sách “trọng nông ức thương” lỗi thời của nhà Lê sơ. Vì vậy, muốn đưa đất nước sớm thoát khỏi khủng hoảng, các vua nhà Mạc đã đưa ra nhiều biện pháp để khôi phục và phát triển đất nước cũng như các chính sách về ruộng đất. Năm 1528, khi thấy tình hình trong nước ổn định, Thái tổ Mạc Đăng Dung sai bề tôi cùng Nguyễn Quốc Hiến “bàn định định binh chế, điền chế, lộc chế” [18, 176]. Tuy nhiên, nội dung của điền chế được bàn trong năm này như thế nào chúng ta không thấy sử sách chép đến.
Cũng như bao triều đại phong kiến Việt Nam khác, với vương triều Mạc ruộng đất là một cơ sở kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, trong thời gian tồn tại 65 năm ở Thăng Long (1527 – 1592) tổng số diện tích đất đai mà nhà Mạc quản lý ít hơn rất nhiều so với triều Lê sơ trước đó. Điều này có thể lý giải như sau:
Một là phạm vi diện tích lãnh thổ mà nhà Mạc cai quản bị thu hẹp rất nhiều kể từ khi nhà Lê khởi nghiệp trung hưng. Năm Quý Tỵ (1533) vua Lê Trang Tông lên ngôi ở đất Lào; đến năm Quý Mùi (1543) mới lấy vùng đất từ Nghệ An trở vào lập ra Nam triều. Hơn nữa họ Mạc đã vấp phải sự chống đối không phục tùng của một số cựu thần nhà Lê.
Hai là vào đầu thế kỷ XVI, lợi dụng chiến tranh loạn lạc, nhà nước phong kiến Lê sơ suy yếu, một số “thế gia vọng tộc” đã tìm mọi cách để bao chiếm ruộng đất công.
Tuy nắm trong tay một số diện tích ruộng đất không lớn bằng triều Lê sơ nhưng nhà Mạc vẫn thực hiện đầy đủ các chính sách về ruộng đất. Đó là chính sách ban cấp lộc điền với các hình thức phân điền (hay tứ điền), thế nghiệp điền và tự điền (ruộng thờ) cho nhiều đối tượng khác nhau: Hoàng tộc, binh lính và đội ngũ quan lại có công với vương triều Mạc.
Đứng trước sự đe doạ của nhà Minh và sự trung hưng của nhà Lê, nhà Mạc tập trung xây dựng một lực lượng quân sự mạnh trung thành. Nhà Mạc đã có chính sách Binh điền. Chính sách Binh điền (hay còn gọi là ruộng lính) là nét nổi bật trong việc thực hiện chính sách lộc điền của nhà Mạc. Để thực hiện chính sách này nhà Mạc phần lớn phải sử dụng ruộng công làng xã phân chia cho binh lính. Nếu như thời Lê sơ, phần lớn ruộng đất công làng xã được dùng để thực hiện chính sách quân điền thì thời Mạc, một phần ruộng đất không nhỏ lại được dùng để thực hiện chính sách binh điền. Điều này cho chúng ta thấy rằng chế độ ruộng đất thời Lê sơ được thực hiện trong điều kiện hoà bình còn thời Mạc do điều kiện chiến tranh nên phải ưu tiên ruộng đất cho binh sĩ. Chính sách binh điền là một sự khác biệt của chính sách ruộng đất thời Mạc so với thời Lê s
1.3. Các hình thức sở hữu ruộng đất
Cũng như bao triều đại phong kiến Việt Nam khác, dưới thời Mạc có các loại hình ruộng đất sau
1.3.1. Ruộng đất công hữu
Ruộng phân điền: Phân điền là một trong những hình thức ban cấp ruộng lộc nhà Mạc dành cho các thành viên trong hoàng tộc. Mặc dù các nguồn sử liệu không nói rõ tuy nhiên dựa vào số liệu văn bia thời Mạc chúng ta có thể biết rõ về nội dung của ruộng phân điền thời Mạc. Văn bia thời Mạc đã cho chúng ta biết được việc các thành viên trong hoàng tộc nhà Mạc cúng ruộng vào chùa. Trong số các loại ruộng được cúng vào chùa có ruộng phân điền. Theo văn bia ở chùa Thiên Phúc ở xã Hoà Niểu, huyện Kiến Thụy, tỉnh Kiến An nay là làng Hoà Liễu xã Thuận Thiên huyện Kiến Thụy, Hải Phòng thì “ngày 10 tháng 11 năm Tân Dậu (1561), Thái hoàng Thái hậu có ruộng phân (phân điền) và ruộng mới mua cúng tiến vào chùa Thiên Phúc làm của Tam bảo khoảng 23 mẫu 2 sào 2 thước” [89, 167]. Chúng ta có thể tìm thấy dấu vết của khu ruộng Vũ Thái hậu qua truyền ngôn: “Giải yếm bà chúa: Thượng tự Tiên Cầm hạ chí Kỳ Sơn” (từ Tiên Cầm nay thuộc Hoà Liễu đến đầm Lá xã Kỳ Sơn, xã Tân Trào). Chính Thái hoàng Thái hậu họ Vũ này cũng cúng 1 mẫu 9 sào ruộng phân điền và ruộng mua vào chùa Bà Đanh (hay còn gọi là chùa Trà Phương, tên chữ là Thiên Phúc tự, thuộc xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng). Bia chùa Hồng Khánh cũng nói rõ Chính phi công chúa cúng 7 mẫu ruộng phân điền cho chùa làm ruộng Tam bảo. Theo nội dung bài bia am Hiển Động ở động Bối Am, núi Phật Tích (Hà Nội) dựng vào năm Hồng Ninh thứ 2 (1592) cho biết: “Nay người con gái thứ hai của ngài Thái uý Tán Quốc công Thượng Trụ quốc, được ban phong Trung thành Tây Kỳ vương là Mạc Ngọc Ý, pháp hiệu Đức An có ruộng được phân (phân điền) 2 mẫu 8 sào và đầm 1 sào” [89, 516] đem cúng vào chùa làm ruộng dưỡng tăng. Ngoài ra, trong nhiều bi ký khác cũng nói đến việc các thành viên trong hoàng tộc Mạc đem ruộng phân điền cúng cho các chùa, quán như Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn cùng vợ là Phúc Thành Thái trưởng công chúa (Mạc Ngọc Lâm) và các quận chúa, phò mã “cúng ruộng ở các xứ Kiều Xá, Mã Lâm, Đình Đổ, Cửa Dẫn, Ải Miếu, Mả Hộ, Kiều Lẫm gồm 10 mẫu” [89, 393] cho Linh Tiên quán (Đan Phượng, Hà Nội)… Hiện nay chúng ta không biết số lượng ruộng phân điền được cấp cho các thành viên trong hoàng tộc Mạc là bao nhiêu nhưng căn cứ vào số lượng bia ký thì số ruộng mà các hoàng thân quốc thích nhà Mạc đem cúng vào chùa cũng chỉ đến 30 mẫu. Đó là ngày 1 tháng 3 năm Diên Thành thứ 5 (1582): “Thái hoàng Thái hậu cúng tiến 30 mẫu ruộng làm của Tam bảo…. Thọ Phương thái trưởng công chúa tiến 20 mẫu ruộng làm của Tam bảo” [89, 322] của chùa Hoa Tân (An Lão -Hải Phòng).
Binh điền: Ngay từ năm 1528 Mạc Đăng Dung đã cho bàn định về lộc điền trong đó chủ yếu là ruộng lính nhưng ý tưởng này phải đến 15 năm sau, tức là năm 1543 mới được thực hiện. Theo lời tâu của Mạc Ninh Bang: “Trong bọn được ưu đãi là trung hiệu, trung sĩ tất nhiên có kẻ hăng hái, có kẻ lười biếng, đâu nhất luật như nhau, thế mà cấp phát ruộng đất một cách đồng đều không phân biệt, thì không thể khuyến khích lòng người được”. “Vậy xin cho các quan tướng bản doanh ra lệnh cho các quan bản huyện lấy công tâm lựa chọn bảo cử, người nào tinh tráng khỏe mạnh và thiện chiến làm hạng nhất, chia loại, lấy thực số làm thành sổ cấp điền. Đồng thời các quan phủ huyện, xã trưởng chiếu theo sổ cấp điền nói trên, lập làm quyển thứ hai, rồi đem ruộng nhất đẳng cấp cho hạng này trước, để khuyến khích chiến sĩ”. Phúc Hải nghe theo” [23, 280]. Như vậy, ruộng đem ban cấp làm lộc điền cho quân sĩ lấy từ ruộng đất công của làng xã và ruộng chùa. Lúc đầu ban cấp theo bình quân nhưng về sau theo công trạng mà ban cấp. Theo Phan Huy Chú, số binh lính dưới thời Mạc lúc đông nhất lên đến 12 vạn bởi vậy số ruộng để chia cho bính lính cũng chiếm một số lượng khá lớn. Theo cụ Phạm Đăng Khoa, 77 tuổi ở làng Hoà Niểu, xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng, thì thời Mạc, Hoà Liễu có 5 mẫu ruộng để dành cho các gia đình có em đi lính cày cấy. Số ruộng này không phải nộp thuế cho nhà nước. Tuy nhiên số ruộng lính này vẫn bị đóng khung trong khuôn khổ “khẩu phần” ruộng công của từng làng và chịu sự chi phối có tính chất khẩu phần đó. Nếu như thời Lê sơ, chính sách lộc điền chủ yếu dành cho quan lại cao cấp, hàm Tứ phẩm trở lên thì dưới thời Mạc chính sách lộc điền lại dành sự ưu tiên cho binh lính. Như vậy, về thực chất ruộng lính là sự chia sẻ một phần về quyền lợi của các thành viên trong hoàng tộc, quan lại cao cấp cho binh lính.
Thế nghiệp điền, tự điền: Tuy ruộng công do nhà nước quản lý còn lại không nhiều sau khi ban cấp lộc điền cho binh lính, quan lại và thực hiện chính sách quân điền nhưng trong suốt thời gian trị vì ở Thăng Long, nhà Mạc vẫn duy trì chính sách ban thưởng ruộng thế nghiệp, ruộng thờ cho những người có công lao lớn đối với vương triều với một số lượng lớn. Mỗi người được cấp đến vài chục mẫu ruộng. Năm 1554, Thiếu sư trí sĩ Trần Phỉ mất “vì lúc này Phúc Nguyên đang gặp biến cố, cho nên không sắm lễ nghi đầy đủ chỉ cấp tiền phúng điếu 20 quan và 57 mẫu ruộng thế nghiệp” [23, 301].
Tháng 9 năm Nhâm Ngọ (1582), theo lời bàn của Vịnh Kiều bá Hoàng Sĩ Khải và Lang trung Bùi Tòng Củ, nhà Mạc đã “cấp cho Thái bảo trước là Gia quốc công Nguyễn Thám 50 mẫu ruộng thế nghiệp” [18, 250]. Hoặc “Thượng thư Nguyễn Thai, người xã Lại An, huyện Đan Phượng (Hà Nội) để lại cho dòng họ 10 mẫu ruộng tế ban cấp từ thời Mạc” [81, 345]. Cũng theo gia phả của dòng họ Nguyễn, Nguyễn Bỉnh Khiêm mất được nhà Mạc cấp 100 mẫu ruộng thờ. Ông còn có ấp ở Thanh Am (Gia Lâm – Hà Nội). Đặc biệt qua nội dung bia Tô quận công thần đạo bi minh dựng năm Diên Thành thứ 2 (1579) cho chúng ta biết Lê Quang Bí (một sứ thần nhà Mạc đi sứ nhà Minh bị giữ lại 18 năm mới trở về) khi mất (1566) vua Mạc rất thương tiếc. “Than ôi! Hoàng thượng cảm thương công lao của ông, đặc ban 20 lạng bạc, và 200 quan tiền, rồi tặng là Thiếu bảo Tô quận công, ban tên Thụy là Trung Thận. Lại sai quan đến tế lễ long trọng, cấp ruộng thế điền 50 mẫu, ruộng tế điền 80 mẫu, thủ mộ 2,3 khoảnh, hiệu sĩ 90 người, miễn hoàn điền là 11 mẫu 4 sào 5 thước để tỏ ra hậu hĩ vậy. Lại nghĩ báo đáp công đức của ông, thưởng công lao của ông, sai Hộ bộ, ưu đãi cấp ruộng tế điền cho bản đạo dựng từ đường, để con cháu phụng thờ như thường lệ” [89, 297]. Nội dung văn bia chùa Hoa Sơn cũng cho ta biết rằng Khiêm vương Mạc Kính Điển có 55 mẫu ruộng ở xã Thiên Bài, huyện Yên Mô (Ninh Bình), hay theo nội dung bia chùa Minh Phúc (xã Cẩm Khê, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng) thì Thái hoàng thái hậu họ Vũ có 5 mẫu ruộng mua lại của ruộng thế nghiệp điền của Phúc Tuy Thái trưởng công chúa ở xứ Mả Cả, xã Đốc Hành bị các con trai là Bùi Thế Mỹ, Bùi Thế Triết và Bùi Thế Trách bán đứt với giá 120 lạng. Bà đã mua số ruộng này để cúng vào chùa làm ruộng Tam Bảo. Tuy nhiên số lượng ruộng thế nghiệp điền mà Phúc Tuy Thái trưởng công chúa được hưởng còn lớn hơn bởi vì văn bia còn cho biết “Ruộng này phía đông giáp ruộng được cấp của Phúc Nghi, tây giáp ruộng quan điền xã Đốc hành, nam gần đường, bắc giáp ruộng thế nghiệp điền phủ Phúc Tuy” [89, 241].
Ruộng chùa: Dưới thời Lê sơ độc tôn Nho giáo hạn chế các hệ tư tưởng khác, bởi vậy sau khi nhà Lê sơ sụp đổ, Phật giáo ở nước ta được phục hưng. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi. Nhiều ngôi chùa bị hoang phế đổ nát trước đó nay được trùng tu tôn tạo. Nhiều ngôi chùa mới được xây dựng. “Văn bia cho biết 168 ngôi chùa được xây dựng và tu bổ dưới thời Mạc, trong đó có khoảng 80 ngôi được sự tham gia công đức của các thành viên trong hoàng tộc và quan lại trong triều đình nhà Mạc” [88, 234]. Chùa đã trở thành nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Chùa thời Mạc cũng có một số lượng diện tích đất canh tác khá lớn, tuy không bằng thời Lý Trần. Diện tích ruộng đất thuộc sở hữu của nhà chùa thời Mạc đã bị thu hẹp đáng kể so với thời Lý -Trần. Chùa Thánh Ân (xã Phù Than, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) có 70 mẫu [89, 397]. Chùa Pháp Vũ (hay còn gọi là chùa Đậu) ở xã Gia Phúc, huyện Thường Tín, Hà Nội cũng có diện tích ruộng gần 70 mẫu. Chùa Linh Vệ (Ninh Bình) có 59 mẫu, chùa Hoa Tân (Hải Phòng) có 50 mẫu, chùa Nghiêm Quang (Hải Dương) có 31 mẫu 1 sào, chùa Bảo Phúc (Hà Nội) có 25 mẫu 9 thước, chùa Thiên Phúc (Hải Phòng) có 26 mẫu 1 sào 2 thước… Ngoài ra cũng có những chùa có diện tích khoảng 3 mẫu. Như vậy, diện tích ruộng chùa thời Mạc ít hơn rất nhiều so với diện tích ruộng chùa thời Lý – Trần. Diện tích ruộng chùa này được sử dụng như thế nào? Chùa Thiên Phúc hay còn gọi chùa Hoà Liễu (xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng) thời Mạc có 47 mẫu 8 sào 2 thước. Số ruộng này được chia cho các thành viên trong làng xã cày cấy, chia cho gia đình có con em đi lính, một phần diện tích được giao cho dân làng cày cấy lấy hoa lợi chia lo việc đèn nhang thờ Phật… Số diện tích ruộng này không phải đóng thuế cho nhà nước. Nguồn gốc ruộng chùa thời Mạc có từ trước đó hoặc một số thành viên hoàng tộc nhà Mạc, quan lại, phật tử cúng ruộng vào chùa.
Ruộng đất công làng xã: Ruộng đất công là cơ sở kinh tế, chỗ dựa của làng xã trong các triều đại phong kiến. Là loại ruộng có nguồn gốc lâu đời, đến thời Lê Sơ, nhà nước dần can thiệp vào quyền quản lý ruộng đất của làng xã. Nhà vua trở thành chủ sở hữu tối cao của toàn bộ ruộng đất trong cả nước và có quyền chi phối số ruộng đất trong lãnh thổ mình quản lý. Mặc dù làng xã có tính tự trị nhất định, tuy nhiên làng xã đã mất dần quyền sở hữu và trở thành bộ phận giúp vua quản lý số ruộng đất ấy. Đến thời Mạc, số ruộng công làng xã đã giảm đi khá nhiều nên việc nhà nước thực hiện phân chia ruộng cũng hạn hẹp hơn vì khi lên nắm quyền, sức mạnh của nhà Mạc chưa thể giành lại quyền sở hữu một diện tích đất đai lớn đang nằm trong tay các thế lực địa chủ quan lại thời Lê Sơ.
Việc ruộng công làng xã giảm đáng kể ảnh hưởng không nhỏ đến khẩu phần ruộng chia của mỗi nhân đinh trong làng, với khẩu phần ruộng được phân không đáng kể, đời sống nhân dân cũng gặp nhiều khó khăn hơn.
Hiện nay, chúng ta còn giữ lại được một cuốn địa bạ Trường An Thượng xã quan điền thời Mạc. Cuốn địa bạ này có 40 trang photo khổ A4, mỗi trang có 11 cột chữ lớn ghi tên xứ đồng, các thửa ruộng và số ruộng được lập vào năm Quảng Hoà thứ 5 (1545). Qua cuốn địa bạ này chúng ta biết được tình hình ruộng quan điền ở xã Trường An Thượng thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay. Xã “Trường An Thượng có 930 mẫu 5 sào 8 thước 4 tấc. Trừ số ruộng bị sụt nước, lở sông, tha ma, mộ địa, đất chua mặn, gò đông còn lại số ruộng Tế điền, Dưỡng vị, Tam bảo các ngạch cộng 321 mẫu 3 sào 4 thước 2 tấc. Thuế quan điền 460 mẫu 8 thước, lệ thu thóc 72 thạch” [90, 69].
1.3.2. Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân
Vào đầu thế kỷ XVI, ruộng đất tư ngày càng phát triển. Dựa vào tư liệu văn bia do làng xã ghi lại chúng ta thấy “dưới thời Mạc, ruộng tư chiếm tới 90% (27/30 mảnh ruộng) ở khu vực chùa làng Thánh Ân (Bắc Ninh), 88% (206/222 mảnh ruộng) ở làng Hoà Niểu (Hải Phòng), 79% (20/29) ở đồng làng Phương Để (Nam Định) và 50% (7/14) ở làng Hậu Bổng (Hải Dương)” [89, 192-193]. Theo Trường An Thượng xã quan điền, chúng ta biết được một số chủ sở hữu ruộng tư như: Nguyễn Quận, Nguyễn Nỗi, Nguyễn Đề, Nguyễn Chân Mỹ… Mặc dù chế độ sở hữu về ruộng đất thời Mạc rất phát triển, chủ sở hữu được mở rộng đến nhiều đối tượng từ tôn thất nhà Mạc, tầng lớp quan lại đến người nông dân, nhưng hầu như không có chủ sở hữu lớn. Nếu căn cứ vào số lượng ruộng cúng tiến vào chùa thì những trường hợp cúng tiến trên 10 mẫu rất ít. Những người cúng tiến trên 10 mẫu thường là tôn thất nhà Mạc, quan lại cao cấp như Mạc Ngọc Liễn và vợ là Phúc Thanh công chúa Mạc Ngọc Lâm 10 mẫu, Thọ Phương thái trưởng công chúa tiến 20 mẫu…
Ruộng tư cúng vào chùa và lưu truyền về sau[1]
Chủ sở hữu |
Chức danh |
Năm |
Số lượng |
Nguồn gốc ruộng |
Tài liệu |
Đỗ Thị Sâm |
Hậu Phật |
1538 |
1m |
Ruộng tư |
B.81 |
Đào Tân |
Tước bá |
1554 |
1m6s |
Ruộng tư gửi giỗ |
B.35 |
Nguyễn Vĩnh Miên |
Thượng thư bộ Lễ |
1557 |
10m |
Lộc điền để cho con cháu |
B.40 |
Vị họ Nguyễn |
Dân làng |
1557 |
1s 8t |
Ruộng tư cúng cho làng |
B.116 |
|
Thái hoàng thái hậu |
1561 |
26m 1s |
Phân điền cúng vào chùa |
B.105 |
Bà họ Vũ |
Thái hoàng thái hậu |
1561 |
26m 2s |
Phân điền và mua |
B.105 |
Bà họ Vũ |
Thái hoàng thái hậu |
1562 |
1m 9s |
Phân điền và mua |
B.155 |
Vương Ngọc Diên |
Vinh quốc Thái phu nhân |
1571 |
3m |
Ruộng tư |
B.117 |
Phúc Tuy |
Công chúa |
1572 |
5m |
Ruộng thế nghiệp |
B.11 |
Cụ ông, cụ bà |
Dân làng |
1578 |
7m |
Ruộng tư |
B.102 |
Bà họ Vũ |
Thái hoàng thái hậu |
1579 |
1m 5s 2t |
Mua cúng vào chùa |
B.22 |
Bà họ Vũ |
Thái hoàng thái hậu |
1579 |
1m 1s 11t |
Mua cúng vào chùa |
B.47 |
Trần Thời Ung |
Phủ sinh |
1579 |
4m 8s |
Lộc điền lưu truyền về sau |
B.107 |
Lê Quang Bí |
Thượng thư, quận công |
1579 |
50m,80, 11m 4s 5t |
Lộc điền, thế nghiệp điền Để lại cho con cháu |
B.124 |
Mai Ngọc Miêu |
Công chúa |
1579 |
1m |
Mua để cúng |
B.151 |
Ng. Thị Ngọc Nha |
Trung quận phu nhân |
1579 |
5s |
Ruộng tư |
B.151 |
Phạm Thị Tam |
Hậu phật |
1579 |
1m |
Ruộng tư |
B.151 |
Bà họ Bùi |
Thái hoàng Thái hậu |
1582 |
30m |
Phân điền |
B.154 |
Thọ Phương |
Công chúa |
1582 |
20m |
Phân điền để bán |
B.154 |
Bà Khiêm |
Thái hậu |
1583 |
3m |
Mua để cúng |
B.141 |
Vị họ Nguyễn |
Tĩnh Quốc công |
1544 |
55m |
Lộc điền đem bán |
B.45 |
Vũ Nho |
Dân làng |
1586 |
5m |
Mua 30quan/1mẫu |
B.45 |
Mạc Ngọc Liễn |
Quận công |
1586 |
10m |
Phân điền |
B.70 |
Công chúa họ Mạc |
Chính phi công chúa |
1589 |
7m |
Phân điền |
B.49 |
Mạc Thị Ngọc Ỷ |
Công chúa |
1592 |
2m 8s |
Phân điền |
B.41 |
(Nguồn: Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội-2001, tr 194-195)
Căn cứ vào bảng trên chúng ta thấy số ruộng đất được cũng vào chùa hoặc gửi lại cho làng dùng vào việc cúng lễ, hoặc mua bán, chuyển nhượng cho đời sau. Phần lớn đây là ruộng tư của các thành viên trong hoàng tộc hoặc của các vị đại thần. Tuy nhiên thời Mạc đã xuất hiện rải rác chủ sở hữu ruộng đất là nông dân.
1.3. Tình hình sản xuất
Ngay sau khi thành lập triều đại mới, Mạc Đăng Dung ý thức được rằng, muốn khôi phục và ổn định đất nước trước tiên cần phải khôi phục và phát triển nông nghiệp. Nhà Mạc đã có nhiều biện pháp để quản lý ruộng đất và chú trọng đến sản xuất nông nghiệp. Để chăm lo về nông nghiệp, ở mỗi địa phương, nhà Mạc đều đặt quan Khuyến nông sứ và Hà đê sứ trực tiếp chăm lo sản xuất, đề phòng lũ lụt. “Nhà Mạc đã khai khẩn đất đai hàng ngàn mẫu. Những cánh bãi, khu đầm dọc các bờ sông Kinh Thầy, sông Hàn, sông Đá Bạc… lần lượt xuất hiện. Hàng trăm mẫu rừng, đặc biệt vườn Thiên – Long -Uyển thuộc hai huyện Thuỷ Nguyên và Đông Triều cũng ra đời” [27, 355]. Không những thế, họ Mạc còn chú trọng công việc đắp đê để bảo vệ mùa màng. Đặc biệt một hệ thống đê lấn biển đảo Hà Nam (Yên Quảng), đê Chân Kim – Hải Dương (ngày nay thuộc Kiến Thụy – Hải Phòng), đê nắn dòng sông Đa Độ cắt qua sông Cốc (Minh Tân – Kiến Thụy), đê Kinh Điền bao bọc xã Tân Viên (An Lão – Hải Phòng). Hệ thống nông giang lớn chạy qua hai huyện Yên Khánh và Yên Mô (nay thuộc huyện Tam Điệp – Ninh Bình). Hệ thống nông giang này có nhiều ngách nhỏ nối tiếp nhau, dẫn nước vào các cánh đồng. Người dân địa phương vẫn quen gọi “sông đào nhà Mạc 99 khúc”. Nhà Mạc đã chú ý đào một số sông, kênh chống úng như: kênh triều Mạc ở núi Voi (An Lão – Hải Phòng), kênh đào Cái Riếc Vĩnh Bảo… Hàng năm để phòng chống nước sông Kinh Thầy đổ về (do mùa mưa lũ gây ra) nhà Mạc đã đào sông chống úng ở huyện Thuỷ Đường (huyện Thuỷ Nguyên ngày nay). Triều đình đã cử ông Nguyễn Công Địch, tước Lộc Hiến hầu, người làng Phù Lưu về khai thông dòng nước, cắt ngang suối Việt từ Câu Tử đến Cao Dương (nay thuộc xã Hợp Thành – Thuỷ Nguyên). Từ đó về sau, nhân dân ít bị úng thuỷ. Dân sở tại vẫn gọi “sông đào thượng quận Phù Lưu”.
Chính sách phát triển nông nghiệp thời Mạc còn được ghi trong Hồng Đức thiện chính thư. Hồng Đức thiện chính thư là một bộ luật thời Mạc được người đời sau chép lại. Bởi vì nó có tên là Hồng Đức nên khiến cho chúng ta hiểu nhầm đây là một bộ luật thời Hồng Đức. Tuy nhiên trong bộ luật này, chúng ta thấy có rất nhiều các luật lệnh ban hành dưới niên hiệu Đại Chính và Quảng Hoà nhà Mạc mà không nói tới các niên hiệu của vua Lê cùng thời. Trong bộ luật này, nhà Mạc đã có một chương nói về điền sản và nhiều điều luật để bảo vệ cũng như phát triển nông nghiệp. Trong tiểu thuyết lịch sử Cổ Trai xuất đế, nhà văn Phạm Thuận Thành có viết Mạc Đăng Dung lúc còn làm Trấn thủ Sơn Nam đã nói như sau: “Ta chẳng có tài gì đâu. Chỉ là có tâm thôi. Phải biết lo cho dân. Dân đói thì sinh biến. Dân khổ vì lao dịch thì sinh loạn. Trấn này đồng trũng ngập lụt liên miên, ta cho khơi dòng, khoanh vùng dẫn nước. Gặp khi mưa lớn nước to, ta cho dẫn về vùng Thanh Liêm, Bình Lục chịu mất trắng một vùng để cứu nơi khác. Dân nghe ta có chính sách bình lương, lấy thóc nơi được để bù cho nơi mất do đứng ra gánh chịu thiên tai. Dân yên thì quân mạnh, an ninh đảm bảo”. Đây có thể là chi tiết hư cấu của nhà văn nhưng ngày nay ở tỉnh Ninh Bình, trấn Sơn Nam thưở trước, vẫn còn có nhiều dấu vết của sông đào nhà Mạc. Hồng Đức thiện chính thư cũng có nói: “Nông phu phải siêng năng nghề nông của mình, mùa hè thì bừa cỏ, mùa thu mùa đông thì gặt lúa. Nếu thấy tiết trời lụt hay hạn hán, chỗ nên tháo nước thì tháo, chỗ nên giữ nước thì giữ, phải nên tuỳ thế ruộng không nên ngăn cấm nước vào hay nước ra. Thảng hoặc tranh dành (giành – tg) nhau, để hại người lợi mình, những việc khó đoán định phải trái, đều bởi đó mà ra vậy, trong lòng phải liệu xử, không nên về hùa hay ngăn cản, cùng là nhận bậy đơn kiện. Nếu việc đã tranh dành (giành – tg) nhau mà một bên biết hối, cùng xin hoà hưu, nên cho đình việc ấy. Nếu cố ý tranh tụng, lập tức xử là kẻ toa tụng để bắt về làm ruộng” [36, 141 – 143].
Sự quan tâm đối với phát triển nông nghiệp của vương triều Mạc còn thể hiện ở ngay câu hỏi của vua Mạc Mậu Hợp đặt ra cho các sĩ tử trong kỳ thi Đình năm Quí Mùi 1583 như sau: “Dân du thử du thực có thể quay về nghề nông không? Đất đai trồng cấy lúa ngô có thể khai khẩn được hết không? Bảo quần thần chăm chút việc nông, quả thực ý chăm lo nền gốc chưa? Thế đạo thịnh suy, dân cư đông vắng là bởi vì lẽ gì? Dân không vâng mệnh, sống không yên, là cớ làm sao?” [63, 249].
Nhờ sự quan tâm của các vua nhà Mạc, chỉ trong một thời gian ngắn, nông nghiệp phục hồi và phát triển. Không còn cảnh những người dân chết đói nằm chồng lên nhau như đầu thế kỷ XVI. Nhân dân ấm no. Chính sử nhà Lê – Trịnh dưới con mắt thù địch với nhà Mạc cũng đã phải thừa nhận: “Súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mối tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liên tiếp được mùa, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn” [23, 276]. Chỉ qua một vài thông tin ít ỏi nhưng cũng cho phép chúng ta khẳng định thời Mạc kinh tế nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi hơn nữa chăn nuôi thời Mạc rất phát triển khiến cho khi gia súc sinh đẻ “cũng không biết được là gia súc nhà mình” [19, 182]. Dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta tổng hợp được bảng số liệu sau:
Bảng lược kê các năm được mùa, mất mùa
thế kỷ XVI theo Đại Việt sử ký toàn thư
Năm |
Sự kiện |
Ở địa phương |
1503 |
Nhà Lê có sắc chỉ cho Thanh Hoa chăm lo đốc thúc việc nhà nông, đắp đê phòng lụt, khai khẩn ruộng hoang. Đắp đê Tô Lịch. |
Thanh Hoa và Bắc Bộ. |
1505 |
Đầu năm bị đại hạn, sau nước lũ lớn. |
Bắc Bộ |
1512 |
Đại hạn, đói to. |
Bắc Bộ |
1513 |
Nước to – vỡ đê. |
Bắc Bộ |
1517 |
Đói to, dân chết đói nằm gối lên nhau. |
Hải Dương, Kinh Bắc |
1519 |
Từ tháng 3 – 4 trời nắng to, lúa bị khô cháy, gạo đắt. |
Bắc Bộ |
1523 |
Có sâu lúa. |
Bắc Bộ |
1526 |
Đắp đê ở các phủ thuộc Hải Dương. |
Hải Dương |
1530 |
Đại hạn, lúa má chết khô. |
Bắc Bộ |
1531 |
Đói to, 1 thăng gạo giá 1 tiền. |
Thanh Hoa |
1532 |
Trong cõi được mùa to. |
Bắc Bộ |
1537 |
Gió to gẫy cây cối, tốc nhà người và vật chết đói. |
Bắc Bộ |
1539 |
Đại hạn, mùa đông động đất. |
|
1557 |
Mưa dầm mấy tháng không ngớt lúa bị ngập. |
Nghệ An, Thanh Hoa |
1559 |
Ngập lụt, dân đói kém. |
Nghệ An, Thanh Hoa |
1560 |
Được mùa to. |
Kinh Bắc (Bắc Bộ) |
1570 |
Dân xiêu tán, ruộng không ai cày, người chết đói. |
Thanh Hoa |
1571 |
Đói to, không thu được hạt thóc nào. |
Thanh Hoa |
1572 |
Đất ruộng bỏ hoang. |
Nghệ An |
1577 |
Mưa dầm nhiều, nước lụt đến 7 lần. |
Nghệ An, Thanh Hoa |
1582 |
Mưa đá to, lúa mầu bị dập nát. |
|
1584 |
Động đất. |
Thanh Hoa |
1586 |
Lụt to, 1 năm lụt đến 7 lần. |
Thanh Hoa |
1587 |
Nước to. |
|
1591 |
Đại hạn, gạo đắt, dân nhiều người xiêu tán. |
Bắc Bộ |
1592 |
Lụt, mất mùa. |
Thanh Hoa |
1594 |
Đại hạn, mất mùa, dân đói kém đến nỗi ăn thịt lẫn nhau. Chết đói 1/3 số dân, đồng ruộng bỏ hoang. |
Hải Dương |
1595 |
Đói to lại thêm nạn dịch, người chết xác gối lên nhau. |
Bắc Bộ |
1596 |
Đói. |
Bắc Bộ |
1597 |
Mất mùa. |
Bắc Bộ |
(Nguồn: Vương triều Mạc, Nxb Khoa học xã hội, tr 123-125).
Căn cứ vào bảng trên, chúng ta thấy từ vùng đất do nhà Mạc quản lý thường xuyên được mùa hơn so với vùng đất do Nam triều quản lý. Điều này một phần do điều kiện tự nhiên ở vùng đất do Bắc triều cai quản tốt hơn vùng đất của Nam triều nhưng phải khẳng định rằng nhà Mạc đã có nhiều chính sách và biện pháp để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Tiểu kết chương 1
Trong nền kinh tế của các quốc gia phong kiến phương Đông thì nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng. Đối với đất nước ta, vai trò của nông nghiệp lại càng quan trọng hơn, hầu như toàn bộ cư dân sinh sống bằng nghề nông. Nghề nông chi phối các ngành nghề khác bởi vậy nông nghiệp được coi là nghề gốc “dĩ nông vi bản”, là nền tảng của sự ổn định của quốc gia. Hiểu được điều đó, sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung và các vua kế tiếp luôn tìm cách để khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhà Mạc khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang nhằm mở rộng diện tích trồng trọt đồng thời cho đắp đê, đào kênh chống úng, chống hạn… Do vậy, sau một thời gian khủng hoảng, đến thời Mạc nền kinh tế nông nghiệp đã được phục hồi và phát triển, nhiều năm liên tiếp được mùa, xã hội dần dần ổn định. Không những vậy, so với thời Lê sơ, nông nghiệp thời Mạc phát triển một cách tương đối toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuôi. Nhà Mạc đã giải quyết được vấn đề ruộng đất cho dân cày mà ở Hoà Niễu (Hải Phòng) là một ví dụ điển hình. Ruộng tư thời Mạc phát triển nhưng những chủ sở hữu ruộng đất với diện tích lớn lại không nhiều.
(Còn tiếp)
[1] Trong bảng này, m tức mẫu, s tức sào, còn t tức thước.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- TỌA ĐÀM VỀ HAI BIA ĐÁ TÌM THẤY TẠI HUYỆN TIÊN LÃNG, TP. HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.