- Đang online: 2
- Hôm qua: 918
- Tuần nay: 15214
- Tổng truy cập: 3,368,838
ĐIỀU CHỈNH NHẬN THỨC VỀ HOÀNG ĐẾ MẠC MẬU HỢP
- 233 lượt xem
ĐIỀU CHỈNH NHẬN THỨC VỀ HOÀNG ĐẾ MẠC MẬU HỢP
(Bài gợi mở)
GS. TSKH Phan Đăng Nhật
(Tượng đá, chùa Bạch Đa, quận Dương Kinh, Hải Phòng)[1]
MỞ ĐẦU
1. Trong bài này có sử dụng một số niên biểu thời Mạc. Về vấn đề ấy, theo Lê Thành Lân, các cuốn “sử mẹ” viết sai nhiều: “Với cái khung thời gian sai đó, Toàn thư có đến 53 niên đại bị chép sai. Vì quá tin vào Toàn thư mà Việt sử thông giám cương mục, Niên biểu Việt Nam, Các nhà khoa bảng Việt Nam,…cũng chép sai nhiều”[2]. Ông đã dựa vào các tư liệu trên văn bia, đồ gốm và Đăng khoa lục để hiệu chỉnh lại niên hiệu. Kết quả nghiên cứu của ông đã được công bố trong Bảng thời dụng dưới đây:
Bảng thời dụng 8 niên biểu của nhà Mạc[3]
TT |
Niên hiệu |
Niên biểu đúng
|
Ngày cải nguyên |
Đời vua |
Ghi chú |
1 |
Cảnh Lịch |
1348-1554 |
1-1-Mậu Thân |
Mạc Phúc Nguyên |
|
2 |
Quang Bảo |
1555- 1564 |
1-1-Ất Mão |
Mạc Phúc Nguyên |
|
3 |
Thuần Phúc |
1565-1568 |
1-1-Ất Sửu |
Mạc Mậu Hợp |
|
4 |
Sùng Khang |
1568-1578 |
Mậu Thìn (1568) |
Mạc Mậu Hợp |
|
5 |
Diên Thành |
1578-1585 |
Tháng 7 Mậu Dần |
Mạc Mậu Hợp |
|
6 |
Đoan Thái |
1585-1588 |
28-6-Ất Dậu |
Mạc Mậu Hợp |
|
7 |
Hưng Trị |
1588- 1591 |
Mậu Tý (1588) |
Mạc Mậu Hợp |
|
8 |
Hồng Ninh |
1591-1592 |
Tân Mão (1591) |
Mạc Mậu Hợp |
|
Chúng tôi nhận thấy bảng niên biểu của Lê Thành Lân là chính xác. Vậy xin sử dụng bảng này.
2. Để đánh giá đúng nhà Mạc, trước hết phải nhìn trọn vẹn lịch sử của họ . Đó là một lịch sử có 12 đời vua (Chu Xuân Giao, Ngưu Quân Khải) với hai thời kỳ cầm quyền: thời kỳ Thăng Long (1527-1592), 65 năm và thời kỳ Cao Bằng (1593-1683) 90 năm. Sau đó còn có thời kỳ hậu Cao Bằng (Ngưu Quân Khải), kết thúc năm 1769 khi thủ lĩnh Hoàng Công Chất qua đời ở Mường Thanh (Điện Biên).
Dầu là cầm quyền hoặc không cầm quyền, có vương triều hoặc hậu vương triều (hậu Cao Bằng), nhà Mạc vẫn kiên trì một ý chí sắt đá, thực hiện mục tiêu chiến lược gồm 4 điểm xuyên suốt:
– Bảo vệ đất nước, chống mọi thế lực ngoại xâm.
– Đánh đổ triều đại phong kiến lạc hậu, suy tàn.
– Xây dựng một nền kinh tế đa diện, đem lại đời sống ấm no cho dân chúng.
– Xây dựng một đời sống tinh thần với tư tưởng cởi mở, thông thoáng về tôn giáo tín ngưỡng, tôn trọng văn hóa của nhân dân, tôn trọng sáng tạo cá nhân.[4]
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp là vị vua thứ 5 của nhà Mạc, là một mắt xích quan trọng của toàn bộ hệ thống nhà Mạc, với mục tiêu chiến lược xuyên suốt như đã nêu trên. Ngài có đặc điểm là cầm quyền lâu nhất, 27 năm (1565-1592) ở Thăng Long, phải gánh chịu những tổn thất nặng nề do hoàn cảnh gây nên cho số phận của nhà Mạc như:
– Thời kỳ khủng hoảng trầm trọng về thủ lĩnh:
.1540, hoàng đế Mạc Đăng Doanh băng hà
.1541, hoàng đế Mạc Đăng Dung băng hà
.1546, hoàng đế Mạc Phúc Hải băng hà;
– Dẫn đến việc hoàng đế Mạc Phúc Nguyên lên ngôi khi còn quá ít tuổi (6 tuổi), đồng thời dẫn đến vụ chia rẽ nghiêm trọng giữa hai bậc đại thần Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi và Khiêm vương Mạc Kính Điển;
– Và đặc biệt, trực tiếp là việc qua đời đột ngột của “kình thiên trụ” Khiêm vương Mạc Kính Điển, “khiến lòng người trong cõi dao động.”
Trong hoàn cảnh đó Ngài đã hết sức chèo chống trong 27 năm trời cho đến ngày cuối cùng. Tuy nhiên, theo lịch sử Lê-Trịnh, Ngài mang nhiều tai tiếng, mà không có ưu điểm gì. Như vậy đã công bằng và khách quan chưa?
Để lạm bàn, chúng tôi xin phép trình bày về vấn đề trên thông qua các mục:
– Kinh tế, lòng dân thời hoàng đế Mạc Mậu Hơp: cầu, chợ, gốm sứ, nghề đá
– Thực hiện đến cùng chính sách “Mạc thị sùng Nho”
– Tôn sùng Phật giáo, Đạo giáo và thần làng: chùa, Đạo quán, đình làng
– Chính sách cụ thể ở làng xã của Thái hoàng thái hậu họ Vũ
– Ba thế hệ tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược, đánh đổ phong kiến lạc hậu, suy tàn: tấm gương của hoàng đế Mạc Mậu Hợp, hoàng đế Mạc Toàn và Quốc mẫu
– Về sự băng hà của Ngài
– Một sự vu khống mới xẩy ra, quá phi lý và quá phi lịch sử
*
HOÀNG ĐẾ MẠC MẬU HỢP VỚI VIỆC
THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA NHÀ MẠC
I. Kinh tế, lòng dân thời hoàng đế Mạc Mậu Hợp
Vua Lê Thánh Tông đã từng lệnh: “Từ nay về sau, trong việc làm ruộng, phải khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn đủ mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếm chuyện buôn bán, làm trò du thủ du thực. Người nào có ruộng đất mà không chăm cày cấy, thì quan cai trị bắt trình trị tội ( P.Đ.N. in đậm)”[5].
Đây là lệnh của vì vua anh minh rất mực, của thời nhà Lê, được gọi là “vua Thánh”. Huấn chỉ của Ngài là, nông nghiệp mới là nghề gốc, các nghề khác như công thương nghiệp là nghề ngọn; đi buôn bán là bỏ gốc theo ngọn, kiếm cớ để “làm trò du thủ du thực”. Theo Từ điền Đào Duy Anh thì: “Du thủ du thực là không có nghề nghiệp gì, ăn chơi cả năm”[6]. Người nào bỏ ruộng đi làm trò du thủ du thực đó “thì quan cai trị bắt trình trị tội”.
Đây không phải là chủ trương riêng mà là tư tưởng chung của nhà Lê, được tóm lại trong khẩu hiệu “trọng nông ức thương”. Nó được cụ thể hóa bằng pháp lệnh nghiệt ngã như vậy.
Trong lúc đó vua Mạc Mậu Hợp kế tục và phát huy đường lối kinh tế đa diện của các tiên đế là vừa trọng nông vừa trọng công thương kể cả nội ngoại thương.
Sự quan tâm đối với phát triển nông nghiệp và nông dân của vua Mạc Mậu Hợp thể hiện ở câu hỏi của Ngài đặt ra trong kỳ thi Đình năm Quí Mùi 1583 như sau: “… Đất đai trồng cấy lúa ngô có thể khai khẩn được hết không? Bảo quần thần chăm chút việc nông, quả thực ý chăm lo nền gốc chưa?Thế đạo thịnh suy, dân cư đông vắng là bởi lẽ gì? Dân không vâng mệnh, sống không yên là cớ làm sao? .”[7]
Khác với vua Thánh Tông và nhà Lê-Trịnh, vua Mạc Mậu Hợp, kế tục truyền thống của Mạc triều là chăm lo cả thương nghiệp, thủ công nghiệp, chăm lo mở chợ, xây cầu sửa đường để lưu thông thuận lợi, khuyến khích các nghề thủ công đăc biệt là nghề gốm sứ
1. Chợ
“Thời Mạc, cùng với sự phát triển của nghề thủ công là sự mở rộng màng lưới chợ làng và buôn bán.
Văn bia cho biết:
– năm 1530 mở chợ Cầu Nguyễn (Hưng hà, Thái Bình),
– năm 1543 mở chợ Tứ Kỳ (Tứ Kỳ, Hải Dương),
– năm 1570 mở chợ Nghĩa Trụ (Văn Giang, Hưng Yên),
– năm 1572 chợ Cẩm Khê (Tiên Lãng, Hải Phòng),
– năm 1573 mở chợ Khả Lang (Gia Khánh, Ninh Bình),
– năm 1575 mở chợ La Phù (Thường tín, Hà Nội),
– năm 1579 mở chợ Hậu Bổng (Gia Lộc, Hải Dương),
– năm 1582 chợ Đặng Xá (Ứng Hòa, Hà Nội),
– năm 1589 mở chợ Phúc Lâm (Ba Vì , Hà Nội),
– năm 1590 chợ Đào Xá (Phú Xuyên, Hà Nội) và chợ Cẩm Viên (Yên Lạc, Vĩnh Phúc)”[8]
Trong số 11 chợ thì 9 chợ được mở ra dưới thời vua Mạc Mậu Hợp, chiếm 82%
2. Cầu “thượng gia hạ kiều”
1 |
Man đô |
Sùng Khang 2 |
2 |
Khánh Long |
Sùng Khang 2 |
3 |
Khê Cốc |
Sùng Khang |
4 |
Đạm Giang |
Sùng Khang |
5 |
Bộc Động |
Sùng Khang |
6 |
Mỗi Nhu |
Diên Thành 3 |
7 |
Cầu chùa Trùng Nghiêm |
Đoan Thái 2 |
8 |
Thiên Đông |
Đoan Thái 3 |
9 |
Đức Di |
Hưng Trị |
10 |
Đường Bột |
Hưng Trị |
Thời vua Mạc Mậu Hợp có 10 chiếc cầu. Cầu giúp cho đi lại thuận lợi, hàng hóa lưu thông. « Thượng gia hạ kiều » lại còn là nơi hành khách nghỉ ngơi. « Kẻ sỹ về triều, nông phu ra đồng, hành khách qua đường, thương nhân đến chợ, không ai không thấy hết đỗi sướng vui, tiện lợi” (Bia tu sửa cầu Mỗi Nhu)
Cầu Mỗi Nhu nằm ở trung tâm một vùng đất biên giới Lạng Giang. Cầu Mỗi Nhu có thể đi mở ra bốn hướng “phía đông từ bến Bình Lương về độ 5 dặm; phía tây đến bến Thái Cảo 3 dặm, phía nam ra bến Tư Mại cũng 3 dặm; phía bắc đến bến Cổ Dũng, Nghiêm Bạch 2 dặm”[9].
3. Gốm sứ
Gốm sứ là một sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc biệt thời nhà Mạc, được thế giới ham chuộng và đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Trong đồ gốm Mạc, loại gốm sứ có minh văn chứa đựng nhiều ý nghĩa về lịch sử, văn hóa, xã hội mà đương thời hiếm thấy ở các khu vực khác. Sau đây là gốm sứ có minh văn thời vua Mạc Mậu Hợp.
Danh sách gốm sứ có minh văn thời vua Mạc Mậu Hợp[10]
(TG=Tác giả, NĐH=Người đặt hàng)
TT |
Tên sản phẩm |
Tác giả và người đặt hàng |
Niên đại |
1 |
Chân đèn |
Vũ Ngộ Tiên, ….(TG) |
Diên Thành |
2 |
Chân đèn 2 phần |
Lê Thi Lộc (NĐH) |
Diên Thành 2 |
3 |
Cặp chân đèn |
Bùi Thị Huệ…(TG) Gia đình họ Lưu…(NĐH) |
Diên Thành 3 |
4 |
Cặp chân đèn |
Nguyễn Phong Lai…(TG) Ngạn quận công….(NĐH) |
Diên Thành 3 |
5 |
Cặp chân đèn ở chùa Keo, Thái Bình |
|
Diên Thành 4 |
6 |
Cặp chân đèn ở đình Mai Phúc, Hà Nội |
|
Diên Thành 7 |
7 |
Chân đèn |
Đỗ Phủ và vợ….(TG) Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn và vợ,….(NĐH) |
Đoan Thái 2 |
8 |
Chân đèn gốm hoa lam |
|
Đoan Thái 3 |
9 |
Chân đèn 2 phần và lư hương |
Đỗ Xuân Vi (TG) Họ Bùi, Phạm, Vũ,…(NĐH) |
Hưng Trị 3 |
10 |
Phần dưới chân đèn |
|
Hồng Ninh |
11 |
Lư hương BTLSVN 1 |
Đỗ Phủ và vợ,…(TG) Họ Lê, Nguyễn, Đinh. (NĐH) |
Đoan Thái |
12 |
Chân đèn 2 phần |
Đỗ Xuân Vi (TG) |
Cuối TK 16, thời vua Mạc Mậu Hợp |
13 |
Lư hương |
Mạc Ngọc Liễn và vợ (NĐH) |
Cuối TK 16,thời vua Mạc Mậu Hợp |
14 |
Lư hương BTLSVN 2
|
Đỗ Phủ và vợ (TG) Họ Lê, Nguyễn , Đinh (NĐH) |
Đoan Thái |
15 |
Cặp chân đèn BTLSVN |
|
Đoan Thái |
Nhà mỹ thuật học Nguyễn Bá Vân khẳng định đồ gốm có minh văn, phần lớn được sản xuất dưới thời vua Mạc Mậu Hợp:
“Qua những dòng chữ viết hoặc khắc trên đồ gốm thờ, ta thấy phần lớn lư hương, chân đèn gốm, được sản xuất tập trung nhiều vào nửa cuối thứ 16 dưới các triều vua Mạc: Sùng Khang (1566-1577), Diên Thành (1578-1585), Đoan Thái (1586-1587), Hưng Trị (1588-1589), chế tạo tại các cơ sở làm gốm ở Bát Tràng và Thanh Lâm”[11].
Đúng ra phải nói các “niên đại”, không phải các “triều vua”, mà các niên đại được tác giả kể ra đây là thuộc thời vua Mạc Mậu Hợp.
4. Người làm nghề chế tác đá thời vua Mạc Mậu Hợp
Danh sách thợ khắc bia
TT |
Tên bia |
Năm dựng bia |
Thợ khắc bia |
Nơi làm việc |
1 |
Kỳ Lân tự bi |
Thuần Phúc sơ niên (1565) |
Tạ Văn Kế |
Sở thừa Sở công bộ khí giới tạo |
2 |
Trùng tu Thụy Ứng quán ký |
Thuần Phúc sơ niên (1565) |
Nguyễn Văn Lan |
Ngự dụng giám san thư cục |
3 |
Trùng tu Kiến Linh tự tái tạo Phật tượng bi |
Thuần Phúc sơ niên (1565) |
|
Công bộ tiến công Quang Thọ điện khí cơ doanh |
4 |
Chân Thánh quán bi |
Sùng Khang thứ 2 (1567) |
Trần Đại Tiêu Đỗ Đình Khoa |
|
5 |
Nghiêm Quang tự bi |
Sùng Khang thứ 7 (1572) |
Nguyễn Văn Minh |
|
6 |
Hoa Nghiêm tự bi |
Diên Thành sơ niên (1578) |
Ngô Khu |
Cơ giới doanh tạo sở Ngọc thạch |
7 |
Trùng tu Linh sơn tự bi ký |
Diên Thành thứ 6 (1583) |
Nguyễn Ích Diệu |
|
8 |
Đông Phao tự tân tạo thiêu hương tiền đường bi |
Đoan Thái sơ niên (1586) |
Nguyễn Ích Diệu |
Ty Hà Thanh, vệ Chiêu Vũ |
9 |
Phượng Tường tự bi |
Đoan Thái thứ 2 (1587) |
Nguyễn Ích Diệu |
Ty Hà Thanh, vệ Chiêu Vũ |
10 |
Tư Phúc tự thạch tỉnh bi |
Đoan Thái thứ 3 (1588) |
Phạm Quang Định, Nguyễn Quý |
Tú Lâm cục |
11 |
An Dương tự bi |
Hưng Trị thứ 2 (1589) |
Nguyễn Ích Diệu |
Ty Hà Thanh, vệ Chiêu Vũ |
12 |
Hà Lâu tự bi chung |
Hưng Trị thứ 2 (1589) |
Nguyễn Tử Nghi, Đoàn Văn Lương, Đoàn Quý |
Ngự dụng giám san thư cục |
Qua bảng thống kê trên chúng ta thấy được danh xưng của một số cơ quan trong Bách công cục và bộ máy quản lý các giám, sở, cục ấy. Đó là các Thượng bảo giám, Lục thanh giám, Khí giới doanh tạo sở, Bách đâu cục, Ngọc thạch cục… Sự liệt kê này có thể là chưa đầy đủ nhưng cũng có thể giúp ta biết về chức danh nghề nghiệp của tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp trong nghề chạm khắc đá ở các giám, sở, cục như: Sở thừa, Tượng chánh, Tượng phó, Tượng nhân, Thường ban, Phó thường ban hay Cục phó… Những người này cũng được ban chức tước như Cẩn sự tá lang, Tướng sĩ lang. Đặc biệt có Tạ Văn Kế người khắc văn bia Kỳ Lân tự bi được vinh phong Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, tước bá.[12]
Qua đây chúng ta thấy thêm một nguyên nhân khiến thủ công mỹ nghệ dưới thời Mạc sở dĩ phát triển là nhà Mạc, mà đại diện ở đây là vua Mạc Mậu Hợp, đã thực sự coi trọng các nghệ nhân.
Phần trên là nói về người làm bia, nếu xét về số lượng sản phẩm, bia thời Mạc được chế tác nhiều, nhất là thời vua Mạc Mậu Hợp:
“Trong số 145 bia Mạc, đời Mạc Đăng Dung (1527-1529) chỉ có 2 bia, Mạc Đăng Doanh (1530-1540) có 9 bia, Mạc Phúc Hải (1541-1546) có 10 bia, Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) có 12 bia, còn lại 112 bia đều thuộc đời Mạc Mậu Hợp (1562-1592)”[13]
5. Lòng dân thời vua Mạc Mậu Hợp, qua văn bia
Vua Mạc Mậu Hợp cũng như nhà Mạc xây dựng một nền kinh tế đa diện, trọng nông mà không ức thương, không trừng phạt nặng nề những người buôn bán mà khuyến khích mọi mặt, mọi thành phần kinh tế. Sự phát triển này không chỉ nhằm mục tiêu trước mắt là đối phó với “thế lực Nam triều” mà nhằm một mục tiêu chiến lược cơ bản, lâu dài và nhân đạo là đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Tôi hoàn toàn nhất trí với tác giả Nguyễn Văn Kim với nhận định sau đây:
“Nhà Mạc đã khơi dậy những tiềm năng, nhân tố phát triển mới mà mục tiêu cuối cùng và cao nhất không chỉ nhằm hướng tới việc xây dựng tiềm lực kinh tế mạnh có thể đương đầu với thế lực Nam triều, ngăn chặn những hiểm họa từ phương Bắc mà còn muốn cho muôn dân được no đủ ngõ hầu thực hiện trách nhiệm lớn nhất của đạo trị quốc là an dân (P.Đ.N. in đậm)”[14].
Vì mục tiêu chiến lược cao đẹp này mà lòng dân nô nức, tinh thần đó được phản ánh một phần trong các lời văn bia sau đây:
“Nhân cầu cũ mà sửa mới lại: dáng vẻ đẹp đẽ quy mô khôi phục như xưa. Kẻ sỹ về triều, nông phu ra đồng, hành khách qua đường, thương nhân đến chợ, không ai không thấy hết đỗi sướng vui, tiện lợi” (Tu sửa cầu Mỗi Nhu, dựng tại chợ Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang; năm Diên Thành thứ 3, 1580)[15]
“Mỗi khi ngắm sóng gợn, lúc nhìn nước lặng như đi đường bằng phẳng trong không, bóng soi mồn một. Khách qua lại đề thơ, thi nhân mang rượu đến thưởng ngoạn. Người lọng dù, ngựa xe ngơi nghỉ, tiện lợi cho mọi người buôn bán. Hành khách ngại gió mưa, ẩn trú rất tốt. Sãi vãi đi lễ Phật, sỉ tử thưởng xuân. Kẻ qua, người lại thấy lợi lạc. Phúc giúp cho người cho vật; công đức vô cùng sán lạn. Năm tháng còn mãi, nhân duyên tốt vậy, há chẳng đẹp sao!” (Tu tạo cầu sửa chùa Trùng Nghiêm, ở chợ xã Giao Tất, huyện Gia Lâm, Hà Nội; năm Đoan Thái thứ 2,1586)[16]“Qua chừng một tháng mà đất trời dường đổi thay, bể không tát mà cá kình mắc cạn, ngựa xe qua lại như đi trên đất bằng. Trời không mưa mà cầu vồng vắt ngang, khách qua lại như đi trên đường lớn. Vì thế mà bù lấp thêm chỗ chưa hoàn hảo của tạo hóa, lớn mạnh thêm cái thế nhà Mạc nước Đại Việt” (Việc làm cầu Thiên Đông, xã Xứ Bái, tỉnh Kiến An, Hải Phòng; năm Đoan Thái thứ 3, 1587)[17]
“Nước triều lên, thuyền qua lại cảnh tượng thật trù phú. Quả là một nơi tráng lệ bậc nhất của xứ Hải Dương, điểm tô cho ấp ta vậy.
Bậc trí giả đi về hội họp, tiệc sen bày đẹp, chén vàng rượu ngọt, hết đỗi mừng vui lúc tương phùng, áo gấm hương đưa. Ngày mở hội, đường rộng ngựa xe nhiều như chất đống.
Kẻ sỹ về triều, thương nhân ra chợ thảy đều rạng rỡ. Ngư dân thả lưới, mục đồng chăn trâu hết đỗi vui mừng.
Bởi chưng cảnh vật nơi đây vô cùng tươi đẹp. Thực là thắng địa xứ Kinh Đông, độc nhất vô nhị vậy. Khi ấy có Thân vương thường hay ngự tới, cùng Vương phi hàng ngày lại qua, nên quán này mới được như vậy. Mấy ai không thành kính đến thăm.
Khiến cho,
Tên quán càng hiển danh, di tích càng rạng rỡ.
(Tu tạo Đạo quán Tiên Phúc, xã Thượng Chiểu, huyện Kim Môn. tỉnh Hải Dương; năm Đoan Thái thứ 4, 1588)[18]
“Thợ thuyền tinh thông tay nghề nhà nông sống được bằng nghề của mình. Người chài lưới, qua đây đánh cá, người hái củi, qua nhờ cầu này mà kiếm sống được, kẻ chăn trâu có chỗ tạm nghỉ ngơi” [89, 251].
Qua một số bài văn bia nêu trên chúng ta thử khảo sát các thành phần xã hội được hưởng lợi.
Các thành phần xã hội được hưởng lợi
Kẻ sỹ (2 lần) Thi nhân Sỉ tử Mục đồng (2 lần) |
Nông phu (2 lần) Người lọng dù Trí giả
|
Khách qua đường Ngư dân (3 lần) Thợ thuyền |
Thươngnhân(3 lần) Sãi vãi Người hái củi |
Hầu hết các thành phần xã hội đều được hưởng lợi, kể cả giàu, nghèo, sang, hèn, quan lại , thợ thuyền, người tu hành,…Điều này chứng tỏ tính chất bình đẳng, dân chủ, sự thu hút rộng rãi mọi tầng lớp của nhà Mạc. Hơn nữa, số người bình thường trong xã hội được nhắc đến nhiều. Bậc cao sang chỉ được nhắc đến 1 lần (người lọng dù) trong số 21 lần xuất hiện các tầng lớp
II. Thực hiện đến cùng chính sách “Mạc thị sùng Nho”
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp làm vua 27 năm. Ngài đã đều đặn tổ chức 10 kỳ thi Hội:
– năm Ất Sửu, Thuần Phúc 1(1565), đỗ 16 tiến sỹ
– năm Mậu Thìn, Thuần Phúc 4 (1568), đỗ 17 tiến sỹ
– năm Tân Mùi, Sùng Khang 4 (1571), đỗ 17 tiến sỹ
– năm Giáp Tuất, Sùng Khang 7 (1574). Đỗ 17 tiến sỹ
– năm Đinh Sửu, Sùng Khang 10 (1577), đỗ 18 tiến sỹ
– năm Canh Thìn, Diên Thành 3 (1580), đỗ 16 tiến sỹ
– năm Quý Mùi, Diên Thành 6 (1583), đỗ 18 tiến sỹ
– năm Bính Tuất, Đoan Thái 1 (1586), đỗ 22 tiến sỹ
– năm Kỷ Sửu, Hưng Trị 2 (1589), đỗ 17 tiến sỹ
– năm Nhâm Thìn, Hồng Ninh 2 (1592), đỗ 17 tiến sỹ[19]
Tổng cộng: 175 tiến sỹ
Năm Nhâm Thìn (1592), tình hình bên nhà Mạc rất nguy kịch, Trịnh Tùng đã đóng quân ở huyện Chương Đức. Lại chia quân đi đánh dẹp Thanh Trì, Phú Xuyên, Từ Liêm, Đan Phượng (tháng 3).
Thế nhưng, năm đó vua Mạc Mậu Hợp vẫn cho tổ chức thi Hội. Khoa này lấy đỗ 17 tiến sỹ, trong đó có 4 Hoàng giáp. Nói rằng vua Mạc Mậu Hợp tôn sùng đạo Nho đến cùng là như vậy.
Bài văn sách đình đối năm 1583, thời vua Mạc Mậu Hợp
Thi đình là khâu cuối cùng của một đợt thi, nhằm trực tiếp chọn người có thực tài để giúp vua, cứu nước, do vua trực tiếp giao đề , trực tiếp hỏi thi và đánh giá. Kỳ thi đình tổ chức năm 1583 lúc vua Mạc Mậu Hợp 22 tuổi, bản văn đối sách mà chúng ta có là của Nguyễn Tuấn Ngạn. Kết quả của kỳ thi này ông được đỗ đầu, được chọn làm đình nguyên thám hoa.
Qua nội dung vấn sách (hỏi) và đối sách (đáp) chúng ta biết rõ vua Mạc Mậu Hợp là một người sùng Nho, Nguyễn Tuấn Ngạn tất nhiên cũng vậy. Nội dung rất phong phú, tất cả có 41 câu hỏi. có thể sắp xếp lại trong 8 chủ đề:
1.Việc trị nước nói chung
Lấy lịch sử Đường Ngu, Tam Đại, Hán Đường Tống, Đinh, Lê, Lý, Trần, lúc thịnh lúc suy để rút ra quy luật
2.Việc xét xử kiện tụng
Dựa vào quẻ Hanh lợi của Kinh Dịch để bàn việc xét xử
3.Về nghề nông
Vẫn coi nghề nông là gốc
4. Hộ khẩu và cấp phát
Bàn về việc Đường Thái Tông tính hộ khẩu mà cấp phát vải lụa cho dân
5.Về chữ tâm
Theo thuyết chính tâm từ đời Đế Thuấn, rồi đến Thang, Vũ và Mạnh Tử
6.Về sự sáng suốt dùng hiền tài của bậc đế vương
Dựa vào tích vua Đường Minh Hoàng: thời đầu dùng người đúng thì thịnh trị, thời sau dùng người sai dẫn đến loạn Thiên Bảo
7.Việc giám sát quan lại
Nêu gương hai người: Âu Dương Tu thời Vương An Thạch và Bao Công
8. Một số việc khác: lời châm minh của các bậc triết nhân thời cổ, vai trò của sử học, vấn đề biên phòng,…[20]
Qua nội dung văn sách đình đối trên, chúng ta thấy vua Mạc Mậu Hợp cũng như các bậc tiên vương họ Mạc thực sự tôn sùng Nho giáo, đã tìm trong đó những triết lý, phương châm cũng như kế sách để trị quốc, an dân. Và bản thân vua Mạc Mậu Hợp cũng là người thông hiểu Nho học, là người có trí lực cao. Đây là một phương diện của vua, phương diện trường khảo thí. Phần sau chúng ta sẽ hiểu vua Mạc Mậu Hợp trên phương diện trường chiến đấu.
III.Tôn sùng Phật giáo, Đạo giáo và thần làng
- 1. Chùa
Thời Mạc không hạn chế Phật giáo như thời Lê sơ, chứng cớ là việc khuyến khích tu bổ xây dựng chùa Phật: “Như vậy có nghĩa là triều đình Mạc không những không hạn chế Phật giáo như thời Lê sơ, mà còn khuyến khích tu bổ, xây dựng chùa Phật”[21]
Dựa vào cả tư liệu điền dã và thư tịch, Nguyễn Du Chi đã thống kê được 142 chùa thời Mạc. Trong số đó thời vua Mạc Mậu Hợp có 52 chùa. Sau đây là danh sách.
Danh sách chùa thời vua Mạc Mậu Hợp.
1 |
Khối Khê |
Thuần Phúc 3 |
2 |
Thọ Ninh |
Thuần Phúc |
3 |
Chùa Tu |
Sùng Khang 1 |
4 |
Quang Khánh |
Sùng Khang 5 |
5 |
Nghiêm Quang |
Sùng Khang 5 |
6 |
Bối Am |
Sùng Khang 5 |
7 |
Thiên Hựu |
Sùng Khang 6 |
8 |
Ưng Xá |
Sùng Khang 7 |
9 |
Bảo Phúc (Quảng Yên) |
Sùng Khang 7 |
10 |
Bảo Phúc (Hà Đông) |
Sùng Khang 7 |
11 |
Hoa Nghiêm (Hà Đông) |
Sùng Khang 9 |
12 |
Sùng Ân và Sùng Phúc (Hưng Yên) |
Sùng Khang 9 |
13 |
Quảng Phúc |
Sùng Khang 10 |
14 |
Hoa Nghiêm (Sơn Tây) |
Diên Thành 1 |
15 |
Sùng Ân (Kiến An) |
Diên thành 1 |
16 |
Cao Dương |
Diên Thành 1 |
17 |
Dương Tân |
Diên Thành1 |
18 |
Bảo Quang |
Diên Thành 1 |
19 |
Viên Quan |
Diên Thành 2 |
20 |
Đại Từ |
Diên Thành 3 |
21 |
Chùa Rộc |
Diên thành 3 |
22 |
Phúc Duyên |
Diên Thành 6 |
23 |
Hưng Phúc |
Diên Thành 6 |
24 |
Linh Sơn |
Diên thành 6 |
25 |
Chuyết Sơn |
Diên Thành 6 |
26 |
Phúc Long |
Diên Thành 6 |
27 |
Câu Diên |
Diên Thành 6 |
28 |
Vĩnh Khánh |
Diên Thành 6 |
29 |
Vĩnh Phúc |
Diên Thành 6 |
30 |
Báo Ân (Hưng Yên) |
Diên Thành 7 |
31 |
Hồng Phúc (Bắc Ninh) |
Đoan Thái 1 |
32 |
Đông Phao |
Đoan Thái 1 |
33 |
Viên Quang |
Đoan Thái 1 |
34 |
Phúc Khánh (Phú Thọ) |
Đoan Thái 1 |
35 |
Phượng Tường |
Đoan Thái 2 |
36 |
Hưng Khánh (Hưng Yên) |
Đoan Thái 2 |
37 |
Phúc Khánh (Bắc Ninh) |
Đoan Thái 2 |
38 |
Phúc Hạ |
Đoan Thái 2 |
39 |
Linh Giác |
Đoan Thái 3 |
40 |
Yên Định |
Đoan Thái 3 |
41 |
Yên Ninh |
Đoan Thái 3 |
42 |
Quang Khải |
Đoan Thái 3 |
43 |
Đại Đồng |
Đoan Thái |
44 |
Gia Hưng |
Đoan Thái |
45 |
An Dương |
Hưng Trị 2 |
46 |
Đức Thắng |
Hưng Trị 2 |
47 |
Bảo Khánh (Kiến An) |
Hưng Trị 2 |
48 |
An Đông |
Hưng Trị 3 |
49 |
Diên Phúc |
Hưng Trị 3 |
50 |
Thiên Phúc (Bắc Ninh) |
Hưng Trị 3 |
51 |
Linh Quang |
Hưng Trị 4 |
51 |
Tam Giáo |
Hồng Ninh 1 |
52 |
Tây Lang |
Hồng Ninh 2 |
2.Đạo quán
“Trong thời kỳ nhà Mạc, chúng ta biết được 8 ngôi[22] Đạo quán nổi tiếng đương thời. Đó là;
– quán Thụy Ứng (Hưng Yên), năm 1562,
– quán Chân Thánh (Hưng Yên), năm 1566 và 1591,
– quán Linh Tiên (Hà Nội), năm 1584,
– Tiên Phúc (Hải Dương), năm 1589,
– Viên Dương (Hà Nội), năm 1589,
– Hội Linh (Hà Nội), năm 1590,
– Đế Thích (Hưng Yên), năm 1590,
– Và Đạo quán Hưng Thánh (Hà Nội), cuối thế kỷ XVI”
Trừ quán Thụy Ứng còn lại 7 Đạo quán được xây dưới thời hoàng đế Mạc Mậu Hợp, chiếm 88%
3.Đình làng
Hiện nay chúng ta biết đến tên của 11 ngôi đình làng thời Mạc. Trong số đó có một số biết rõ niên đại, và số biết niên đại có 5 ngôi thuộc thời kỳ vua Mạc Mậu Hợp. Đó là:
– đình Lỗ Hạnh, 1576, niên hiệu Sùng Khang, ở xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, Hà Bắc.
– đình Tây Đằng, 1583, niên hiệu Diên Thành, ở xã Tây Đằng, huyện Ba vì Hà Tây
– đình Đại Đoan, 1583, niên hiệu Diên thành.
– đình Trừng Hoài, 1585, niên hiệu Đoan Thái.
– đình Cẩm Viên, 1590, niên hiệu Hưng Trị.[23]
Lỗ Hạnh và Tây Đằng là hai ngôi đình tiêu biểu và đặc sắc, đồng thời là những công trình kiến trúc dân dụng sớm nhất.
“Cái quý nhất của đình Tây Đằng là cùng với đình Lỗ Hạnh, là những công trình kiến trúc công cộng dân dụng sớm nhất của lịch sử kiến trúc Việt Nam mà còn tương đối hoàn chỉnh”[24]
Nghệ thuật trang trí đình Lỗ Hạnh
Trang trí ở đây có nhiều kiểu đề tài. Vật linh có rồng phượng. Rồng có rồng quay mặt ra nhìn trực diện, rồng quay đầu lại, cá chép hóa rồng,…Phượng to đuôi dài bay tỏa ra trong mây. Vật thông thường có hổ nằm, hươu uốn lưng, hươu trong mây, tiên nữ cưỡi hươu đánh đàn,…Tóm lại đề đối tương hiện thực tuy phổ biến nhưng thể hiện rât sinh động. Ngoài ra còn có đề tài mây lửa, hoa cúc, chân quỳ dạ cá,…
Giá trị đặc sắc của đình Tây Đằng
Trang trí trên đình dày đặc và rất phong phú, có thể chia làm 2 loại chính:
– Trang trí “quyền quý” gồm có: rồng và tiên nữ. Rồng có rồng đuổi nhau vui vé hoặc rồng chầu trang nghiêm. Tiên nữ cưỡi rồng, tiên nữ thổi sáo ngang, sáo dọc, đánh đàn đáy, đàn nguyệt… Những tượng này chạm một cách thô sơ mà rất đẹp vì đơn giản và rất gợi cảm.
– Trang trí dân dã lại đặc sắc hơn. Trước hết là không công thức mà rất sinh động, không phải ngựa chầu, hổ ngồi, voi quỳ, mà ngựa bay, hổ chồm và voi lồng. Khi chúng chầu là một lực lượng hầu hạ, khi bay lên, chồm tới và lồng lên chúng trở thành một sức mạnh phi thường, “mạnh như voi như hổ”, đang thực hiện sự thay đổi và lật đổ. Đó là chiều sâu triết lý thể hiện hành động và nguyện vọng chính trị của nhà Mạc.
Có giả trị thẩm mỹ và triết lý sâu sắc hơn nữa là các mô típ trang trí về sinh hoạt của người lao động như: chặt củi, cày voi, đuổi hổ, bắt rắn, làm xiếc; các sinh hoạt thường ngày như bơi thuyền, chèo thuyền, trai gái tình tự, ông già tỏ tình với đàn bà trẻ…
“Chốn đình trung” là chốn trang nghiêm , quan cách, nơi quan viên chức sắc của làng hội họp, bàn bạc, xét xử; nơi tế lễ, thờ cúng thần làng. Thế mà trên đầu các vị lại dám phơi bày các hình tượng ngỗ ngược (voi lồng, ngựa bay…) và thiếu lễ giáo ( tình tự, ghẹo gái,…)………
Trong xã hội phong kiến nhà Lê, không nói thời suy đồi, vua Quỷ, vua Lợn mà ngay thời thịnh Lê sơ, trước nhà Mạc, cũng không thể có hiện tượng trên.
Đến thời Lê, các tập tục dân gian phải chịu sự phán xét khắc nghiệt của vua quan dưới cái nhìn Nho giáo. Mở đầu là năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà (1448), khi vua Lê Nhân Tông vào Thanh Hoá, các quan xa giá thấy dân chúng hát điệu “rí ren”, con trai con gái vừa hát vừa quàng chân tay nhau đã ra lệnh cấm. Từ đó, các triều vua đã từng bước can thiệp vào phong tục tập quán làng xã
“Ngày Giáp Tuất, vua ngự về Lam Kinh, Thái hậu và các vương đều đi theo. Sai Đại tư đồ Lê Thận và Đô áp nha Lê Bí ở lại giữ kinh sư. Dân Thanh Hoa thấy xa giá đến , trai gái đem nhau tới hát rí ren (lý liên-một hình thức múa hát dân gian ở Thanh Hoá thời đó) ở hành tại. Tục hát rí ren này, một bên con trai, một bên con gái dắt tay nhau ca hát, có lúc tréo chân tréo cổ nhau gọi là cắm hoa kết hoa, trông rất là xấu. Đài quan Hồng Hanh Phát bẩm với Thái uý Khả rằng: “Đây là thói dâm tục xấu, không thể để nhảm nhí trước xa giá được. Khả lập tức sai cấm hẳn”[25]
Về ca nhạc, tháng 5, năm 1437, do kiến giải về âm nhạc của Nguyễn Trãi mâu thuẫn với kiến giải của Lương Đăng, nên Nguyễn Trãi “xin trả lại công việc”. “Vua theo lời bàn của Đăng, rồi làm theo.Vua yết thái miếu, bãi bỏ trò hát chèo, không tấu dâm nhạc nữa”(25) (chú thích trong sách Đại việt sử ký toàn thư: “dâm nhạc đối lập với nhã nhạc”, ở đây chỉ các làn điệu dân gian)
Đàn chay, hát xướng, chơi đùa và trò tạp kỹ cũng bị cấm: “Tháng Tư năm Ất Dậu niên hiệu Quang Thuận (1465) vua Lê Thánh Tông lệnh cho bộ Lễ đôn đốc sửa đổi phong tục dân gian: khi có việc tang không được bày đặt ăn uống, tiết Trung Nguyên không được lập đàn chay, không được hát xướng, chơi đùa và bày trò tạp kỹ”[26]
Các thú vui chơi như gà chọi, chim cảnh, cá cảnh đều bị cấm: “Ra lệnh cấm chỉ con em nhà thế gia và dân chúng không được nuôi những vật làm trò như gà chọi, khỉ làm trò, bồ câu thả, chim sơn hô/sơn ca, cá vàng, mà bỏ cả nghề nghiệp”[27]
IV. Chính sách cụ thể ở làng xã của Thái hoàng thái hậu họ Vũ
Thái hoàng thái hậu họ Vũ[28] tên là Vũ Thị Ngọc Toản có khi đổi là Toàn, quê ở làng Nhân Trai, xã Đại Hà, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng, hoạt đông đóng góp cho nhiều nơi, nổi bật là làng Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.
Bà đã có công lớn là lấy tiền riêng mua 25 mẫu 8 sào 2 thước cúng dâng Tam bảo chùa làng Hoà Liễu (xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng); đồng thời vận động hoàng thân quốc thích đóng góp thêm, tổng số ruộng lên tới 47 mẫu 3 sào, goi là ruộng nhà Thánh (Thánh điền). Số ruộng trên được dùng làm ba khoản chính:
– Khoản thứ nhất. Cấp cho việc cúng tế ở đền và chùa làng
– Khoản thứ hai. Cấp cho dân đinh, thượng hạ. Khi dân số ít thì chia đến tuổi 15, khi dân số tăng thì chia đến tuổi 18, mỗi người một sào, cày cấy thu hoạch, không phải nộp thuế. Chia theo cách bốc thăm công khai, già nhận trước, trẻ nhận sau, cứ 3 năm chia lại một lần.
– Khoản thứ ba. Phát canh cho cấy lấy thóc lập quỹ hội Thiện[29]/nghĩa thương, khi đói khó cấp đỡ người nghèo, cô nhân, quả phụ, bảo dưỡng lát gạch đường làng. Đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 quỹ làng còn 3 tấn thóc, ủng hộ kháng chiến, số thóc cho người nghèo vay không thu lại nữa.[30]
Cùng với việc cấp ruộng cho dân làng, Thái hoàng thái hậu là người công đức để xây dựng chùa với 6000 lá vàng, cùng không biết bao nhiệu tiền bạc cho trên 15 ngôi chùa ở khu vực Dương Kinh và phụ cận như:
Chùa Linh Cảm (Tiên Sơn, Bắc Ninh) 1557, chùa Bà Đanh (Kiến Thuỵ, Hải Phòng) 1563, chùa Thiên Hựu (Nam Sách, Hải Dương) 1571, chùa Minh Phúc (Tiên Lãng, Hải Phòng) 1572, chùa Sùng Ân (Phù Cừ, Hưng Yên) 1574, chùa Phổ Chiếu (Kiến Thuỵ, Hải Phòng) 1579, chùa Thánh Thọ (Bình giang, Hải Dương) 1579, chùa Minh Quang (Gia Lộc, Hải Dương) 1579, chùa Hoa Tân (An Lão, Hải Phòng) 1582, chùa Linh Sơn ( An Lão, Hải Phòng) 1583, chùa Báo Ân (Phù Cừ, Hưng Yên)1584, chùa Sùng Quang (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) 1578, chùa Trúc Am (Kiến thuỵ, Hải Phòng) 1589, chùa Hà Lâu (Tiên Lãng, Hải Phòng )1589,v.v….[31] và chùa làng Hoà Liễu, có tên Thiên Phúc Tự xây dựng năm 1562.
Qua các năm xây chùa , chúng ta có thể kết luận, phần lớn cuộc đời của Bà hoạt động dưới thời vua Mạc Mậu Hợp, cụ thể là:
– chùa Thiên Hựu xây năm Sùng Khang (1571)
– chùa Minh Phúc xây năm Sùng Khang (1572)
– chùa Sùng Ân xây năm Sùng Khang (1574)
– chùa Phổ Chiếu xây năm Diên Thành (1579)
– chùa Thánh Thọ xây năm Diên thành (1579)
– chùa Minh Quang xây năm Diên Thành (1579)
– chùa Hoa Tân xây năm Diên Thành (1582)
– chùa Linh Sơn xây năm Diên Thành (1583)
– chùa Báo Ân xây năm Diên Thành (1584)
– chùa Sùng Quang xây năm Diên Thành (1578)
– chùa Trúc Am xây năm Hưng Trị (1589)
– chùa Hà Lâu xây năm Hưng Trị (1589)
Và Bà không thể không được sự đồng tình ủng hộ của vua Mạc Mậu Hợp
Bà cũng là người “bày cho” dân lễ minh thệ, để chống trộm cắp, tham nhũng.
Đúng như PGS Đinh Khắc Thuân đã nhận định: “Bà Thái hoàng thái hậu họ Vũ quả là một người đã dốc toàn tâm toàn ý cho công cuộc trung hưng chùa Phật thời kỳ này. Bà từng được dân gian tôn xưng là “mẫu nghi thiên hạ, là vị Phật sống trên trần gian”[32] … “Bà Thái hoàng thái hậu họ Vũ xem như một biểu tượng của người phúc thiện, đáng được muôn đời ghi nhớ”[33]
V. Tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược đánh đổ phong kiến suy đồi
1. Tấm gương Anh tổ Tĩnh Hoàng đế Mạc Mậu Hợp
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp lên ngôi năm 1565, khi mới 2 tuổi, được một bậc hoàng thân anh tài, kiêm văn võ làm phụ chính – Khiêm vương Mạc Kính Điển. Tháng 10 năm Kỷ Mão (1579) Mạc Kính Điển qua đời, lúc tình thế đôi bên Mạc-Trịnh còn rất căng thẳng. Đàng tiếc họ Mạc mất một người con: “Nhân hậu dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao trung thành”[34]. Đây là lời đánh giá của sách Toàn thư càng chứng tỏ sự mất mát này là vô cùng to lớn.
Tháng 12 năm Tân Tỵ (1581), triều đình trao quyền phụ chính cho hoàng thân Ứng vương Mạc Đôn Nhượng. Từ đấy trên chiến trường nhà Mạc thua nhiều hơn thắng.
Càng về sau tình thế ngày càng nguy nan. Chịu trách nhiệm trước lịch sử và các bậc tiên đế, vua trao ngai vàng cho con là Mạc Toàn rồi tự mình trực tiếp thống lĩnh quân đội.
“Ngày 25-11 Tân Mão (1591), Mạc Mậu Hợp lập con là Toàn làm vua, sai coi việc nước, đổi niên hiệu là Vũ Anh/Vũ An, năm thứ nhất, rồi tự ra làm tướng chống lại triều đình”[35]
Ngài đã huy động toàn bộ lực lượng các trấn, vệ, phủ được 10 vạn quân và tự mình nhận đốc thúc trung quân, quyết chiến.
“Ngày Nhâm tý 21, ban đêm, mặt trăng phạm vào sao Tuế. Bấy giờ họ Mạc bàn cử hết đại binh, thúc gọi binh mã 4 trấn, 4 vệ, 5 phủ, được độ hơn 10 vạn, hẹn đến ngày 16 tháng ấy đến hội quân ở Hiệp Thượng, Hiệp Hạ ( Quốc Oai) để quyết chiến; sai Mạc Ngọc Liễn đốc xuất các tướng sỹ binh mã Tây đạo, Nguyễn Quyện đốc xuất tướng lĩnh binh mã Nam đạo, bọn Ngạn quận công, Thủy quận công chỉ huy binh mã Đông đạo, bọn Đương quận công, Xuyên quận công chỉ huy binh mã Bắc đạo, bọn Khuông Định công, Tân quận công chỉ huy binh mã 4 vệ. Mạc Mậu Hợp đích thân đốc xuất binh mã của chính dinh. Hậu đội thì trong có các tông thất họ Mạc và các tướng túc vệ ở Đông đạo đi sau tiếp chiến.
Ngày 27-12-Tân Mão (1591), chia dường cùng tiến . Đến địa phận xã Phấn Thượng, (nay là xã Ngọc Tảo, huyện Tùng Thiện, Hà Tây) hai bên đối trận với nhau, dàn bày binh mã. Bốn đội quân của họ Mạc khua chuông đánh trống nhất tề tiến lên. Mạc Mậu Hợp đích thân đốc chiến”[36]
Tuy nhiên bên Mạc bị thua nặng, bèn tổ chức thủy chiến hòng giành lại ưu thế, lần này Ngài cũng tự chỉ huy thủy quân hơn 100 chiến thuyền:
“Ngày 6 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1592), Bấy giờ Mạc Mậu Hợp đã qua sông, nhưng còn cậy có sông Cái, có chuẩn bị từ trước. Sai tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía Tây đến phường Nhật Chiêu; bọn Bùi Văn Khuê, Trần Bách niên đem quân 4 vệ giữ cử Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống, đến thẳng cửa Cầu Dền, chia dinh thứ, ngày đêm cố thủ trong thành Đại La để chống giữ. Tướng Nam Đạo Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về Đông. Mạc Mậu Hợp tự đốc thủy quân, dàn hơn 100 chiến thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách tử và các thứ hỏa khí để phòng bị.”[37]
Mặt trận này rốt cục nhà Mạc cũng đại bại, cuối cùng phải rút khỏi Thăng Long.
2. Tấm gương Cảnh Tông Thành Hoàng đế Mạc Toàn
Hoàng đế Mạc Toàn là con trai trưởng của Hoàng đế Mạc Mậu Hợp là vị vua thứ 6 của nhà Mạc, lên ngôi ở Thăng Long. Ngài đã kế thừa và phát huy được truyền thống quý baú của dòng họ: anh dũng, kiên cường, bất khuất.
Ngài được vua cha truyền ngôi ngày 26-11-1592 (Nhâm Thìn) để (vua cha) cầm quân ra trận. Nghe tin vua cha bị thua vội đem quân tiếp ứng, đi đến núi Đồ Sơn gặp quân Trịnh Tùng, Ngài chiến đấu dũng cảm, nhưng bị thua. Ngài chạy vào vùng núi Đông Triều, qua My Thử (tức làng Mè, Hải Dương), định lên đóng ở núi Yên Tử. Sau đó Ngài đi đường tắt 10 ngày đến Lạng Sơn. Ở Lạng Sơn, Ngài mộ quân được 6, 7 vạn. Văn võ bá quan tập hợp được 200 người bàn tính khôi phục lại Đông Đô, Trịnh Tùng lo sợ, cho đem 5 vạn quân lên đánh, lần nào cũng bị thua.[38]
Theo Lê Quý Đôn, Cảnh Tông Thành Hoàng Đế bị bắt và bị chém đầu ở bến Thảo Tân vào ngày 27 tháng Giêng năm Quý Tỵ, 1593. Ngài lên ngôi được 3 tháng, từ tháng 11 năm Nhâm Thìn đến tháng Giêng năm Quý Tỵ
Cảnh Tông Thành Hoàng Đế Mạc Toàn sinh ra vào thời gian cuối của vương triều Mạc, giai đoạn Thăng Long, một thời gian lịch sử đầy bi tráng. Tuy nhiên Ngài đã sống và chiến đấu dũng cảm kiên cường, đã hy sinh để bảo vệ lý tưởng cao đẹp, xứng đáng với truyền thống oanh liệt của dân tộc và với các bậc tiên đế.
3. Tấm gương Quốc mẫu Hoàng thái hậu
Con trai và cháu đích tôn thất trận và hy sinh, Quốc mẫu Hoàng Thái hậu lên ngôi hoàng đế, hiệu triệu toàn dân, toàn quân giành lại Kinh đô:
(Ngày 1 tháng 6 năm Canh Tý-1600) “Bâý giờ, mẹ Mạc Mậu Hợp ngụy xưng là quốc mẫu, lên thay ngôi báu. Người tông thất họ Mạc và dư đảng khi trước tránh vào rừng núi, đến đây cùng với con trưởng của Mậu Hợp (không rõ tên) đều đến kính lạy chào. Mẹ Mậu Hợp sai người đi đón Kính Cung, tự ban ân thưởng, trên từ quan viên, dưới đến thứ dân, không kể công lao mới hay cũ, đều phong làm các chức đô chỉ huy sứ, đồng tri, thiêm sự, tả hữu hiệu điểm.
Mùa thu tháng 7, Kính Cung khởi hành từ cửa quan, đến Thị Cầu, huyện Vũ Ninh. Bọn Ngô Đình Nga đều đem quân huyện mình ra đón. Kính Cung đều cho giữ chức cũ. Thế rồi, quan viên tướng sỹ trong nước cùng rước Kính Cung tới Kinh sư”[39]
VI. Về sự băng hà của Ngài
Có hai nguồn tư liệu nói khác nhau: Hoàng đế Mạc Mậu Hợp bị hành hình dã man ở Bồ Đề và Ngài mất trong vòng tay gia đình ở Cao Bình:
1. (Ngày 1-tháng Chạp Nhâm Tuất) “Bấy giờ, Mạc Mậu Hợp bỏ thuyền đi bộ, đến một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhỡn ẩn nấp ở đấy 11 ngày. Quan quân đến huyện Phượng Nhỡn, có người trong thôn dẫn đường đưa quan quân vào chùa bắt được Mạc Mậu Hợp đem đến dinh quận. Vũ quận công sai người lấy voi chở cùng hai kỹ nữ về Kinh sư dâng tù, bêu sống ba ngày rồi chém ở bến Bồ Đề, gửi đầu về hành tại Vạn Lại ở Thanh Hoa, đóng đinh vào hai mắt bỏ ở chợ.”[40]
2. Gia phả họ Ngô-Mạc ở Hoa Phú, Bình Dương, Vĩnh Phúc: “Vua Mạc Mậu Hợp sinh 18 con trai đều bị tiêu diệt. Chỉ còn lại 3 con là: Thao, Phố, Thanh. Con lớn là Thao theo cha vào tỉnh Cao Bình ở ẩn, rồi cha chết. Thao đổi tên thay họ là Vạn, con thứ 6 là Thanh trốn vào tỉnh Thanh Hóa thoát nạn rồi thay tên đổi họ.” (Ô. Ngô Hữu Mai, Văn phòng UBND tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp tư liệu)[41]
Hiện nay chưa thể khẳng định đúng sai, thực hư. Phải chờ đến lúc con người tìm ra một thứ kỹ thuật cận phi vật chất mà hiện môn vật lý hiện đại đang lần lần tìm đến. Tuy nhiên đường đến đó có lẽ còn xa.Vậy xin cung cấp thêm tư liệu, gia phả họ Ngô-Mạc, chỉ nhằm hé ra một khe sáng mới giúp người sau tiếp tục.
*
Tiểu kết phần hai
Trong thời gian cầm quyền, hoàng đế Mạc Mậu Hợp đã tận tụy, kiên tâm, quyết chí thực hiện cho được mục tiêu chiến lược của tiên đế.
Về kinh tế-xã hội, Ngài coi nông nghiệp là nghề gốc, nhưng đồng thời cũng ra sức phát triển công thương nghiệp. Chúng ta thấy, chợ (9 cái), cầu (10 chiếc), gốm sứ có minh văn (15 sản phẩm)…Một nền kinh tế đa diện và năng động hình thành và phát triển, bước đầu đem đến sự phồn vinh cho xã hội, mọi tầng lớp nhân dân đều được hưởng lợi, đặc biệt đáng quan tâm là lớp dân thường: người làm ruộng, người buôn bán, người đánh cá, kẻ chăn trâu,…đều hồ hởi.
Về văn hóa- giáo dục, Ngài đã quyết tâm , kiên trì đào tạo, tuyển chọn nhân tài qua thi cử. Ngài làm vua 27 năm thì tổ chức đúng 10 kỳ thi, cứ 3 năm một kỳ. Kỳ cuối cùng, tình hình nguy nan, Trịnh Tùng đã đánh sát Kinh kỳ, Ngài vẫn quyết cho thi để lấy thêm cho đất nước 17 tiến sỹ, trong đó có 4 thám hoa.
Đúng là “Mạc thị sùng Nho”, nhưng không độc tôn Nho giáo. Dưới thời Ngài Phật giáo, Đạo giáo và thần làng được tôn sùng, số chùa được xây dựng (52 ngôi ), số đạo quán (7/8 ngôi), số đình làng (5/11ngôi). Riêng đình Lỗ Hạnh và đình Tây Đằng là hai đình làng đặc sắc, tiêu biểu và lâu đời nhất trong các công trình kiến trúc công cộng, được xây dựng /trùng tu vào thời này.
Về cá nhân, chúng ta thấy vua Mạc Mậu Hợp là một vì vua có học vấn, có trí lực, thể lực, văn võ kiêm toàn, có trách nhiệm cao đối với tiên liệt và lịch sử, trong hoàn cảnh nguy nan đã rời bỏ ngai vàng nhận nhiệm vụ nặng nề nhất, là tổng chỉ huy toàn quân, cầm đầu hai cuộc chiến đấu, trực tiếp đối đầu với Trịnh Tùng. Không chỉ có Ngài nêu gương dũng lược, mà con trai-vua Mạc Toàn và mẹ già-Quốc mẫu cũng đều xông lên hy sinh vì sự nghiệp lớn. Một gia đình quốc vương như vậy không có nhiều trong lịch sử các vương triều nước ta.
Hoàn cảnh lịch sử không cho phép lật ngược ván cờ. Hoàng đế Mạc Mậu hợp thất trận. Nhưng, các thế hệ hậu duệ của Ngài lớp lớp kế tiếp nhau chiến đấu vì mục tiêu chiến lược của nhà Mạc, qua thời kỳ Cao Bằng, đến thời kỳ hậu Cao Bằng và chỉ chấm dứt khi thủ lĩnh Hoàng Công Chất qua đời ở Điện Biên, năm 1769. *
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp công lao, cuộc đời và con người như vậy mà đáng tiếc là gần đây, trên một tờ Tạp chí lại diễn ra một sự vu khống tệ hại và hoàn toàn vô căn cứ. Đó là bài viết của Tri Tâm, “Từ trong di sản, chuyện tình thầm kín Nguyễn Thị Duệ”, đăng ở Tạp chí Văn hiến Việt Nam, số 4-2009, tr.38-39.
VII. Một sự vu khống quá phi lý và quá phi lịch sử mới xẩy ra
Tri Tâm viết: “Sau khi đỗ cử nhân khoa thi hương năm Ất Dậu (1585), Nguyễn Văn Du (tức Nguyễn Thị Duệ-PĐN) vào khoa thi hội năm Bính Tuất (1586) đời Mạc Mậu Hợp….
Đêm trung thu Tân Mão (1591), Mạc Mậu Hợp xuống chỉ vời Nguyễn Văn Du vào cung họp mặt với các văn thần làm thơ thưởng nguyệt. Văn Du trong lòng rất nghi ngờ nhưng nếu không đi thì mắc tội kháng lệnh vua, sẽ bị xử trảm nên phải miễn cưỡng tuân chỉ, trong đầu ngổn ngang những đối sách ứng phó.
Khi quân hầu đưa Vân Du tới lầu vọng nguyệt quả nhiên chẳng thấy văn nhân, thi sỹ nào cả, chỉ thấy mình Mạc Mậu Hợp với bàn tiệc có một bình ngự tửu, hai chiếc chén ngọc, hai chiếc bát vàng, hai đôi đũa bạc đang đợi nàng. Biết bị vua lừa, thi lễ xong Vân Du quay ngay ra cầu thang để xuống lầu. Cầu thang đã bị rút. Mạc Mậu Hợp ở sát ngay sau lưng cười lả lơi, đưa tay định dắt Vân Du trở vào; Vân du nghiêm mặt nói sang sảng: “Bệ hạ đã lừa dối thần. Nếu bệ hạ chạm vào người thần thì thần nhảy ngay xuống lầu, không hề tiếc thân xác này nữa”. Ngay sau đó nàng bị giam vào cấm cung. Tin này đến tai Trạng nguyên Giáp Hải (một trong số học trò của trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm) lúc đó đang giữ chức Lại bộ thượng thư Đông các đại học sỹ. tước Thái bảo Sách quốc công nhập thị kinh diên. Giáp Hải lập tức vào cung lấy điều hơn lẽ thiệt để can ngăn.”[42]
Chúng tôi đã tra cứu và thấy, kỳ thi Hội khoa Bính Tuất (1586), niên hiệu Đoan Thái, đời vua Mạc Mậu Hợp, đỗ 22 vị tiến sỹ, trong đó có 1 Thám hoa, 3 Hoàng Giáp. Tuyệt nhiên không có ai là Nguyễn Văn Du hoặc Nguyễn Thị Duệ[43]
Vậy thực tế tiến sỹ Nguyễn Thị Duệ thi ở đâu?
Các tài liệu sau đây nói rõ bà thi ở Cao Bằng:
1.“Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình từ Hải Dương chạy theo nhà Mạc lên Cao Bằng. Vốn là người ham học lại thấy nhiều tấm gương ngay ở quê hương mình, làng mình như Nguyễn Doãn Khâm vốn chỉ là chàng lực điền, nhưng đã có công dùi mài kinh sử. Ông đỗ tiến sỹ khoa Kỷ Mùi (1559) làm quan đến Đô Ngự sử , tước Nghiêm Sơn hầu. Hay như Nguyễn Công Phong, mới 8 tuổi đã biết làm văn, ông đỗ tiến sỹ khoa Mậu Thìn (1568) đời Sùng Khang (Mạc Mậu Hợp). Vì vậy Nguyễn Thị Duệ đã giả trai đổi tên là Du, xin theo học ông thầy họ Cao cũng là người Hải Dương. Năm Bính Thìn (1616) nhà Mạc mở khoa thi Hội ở Cao Bằng, mấy thầy trò cùng đi thi. Kết quả ông thầy họ Cao đỗ thứ hai, còn cậu Du (tức Nguyễn Thi Duệ) đỗ đầu bảng. Dân gian truyền tụng rằng đêm trước buổi tiệc mừng các vị tân khoa vua Mạc được báo mộng, có một ông Nghè là gái. Chính ở bữa tiệc này Nguyễn thị Duệ buộc phải lộ rõ thân phận mình. Rất may, vua Mạc (Kính Cung) không trị tội “khi quân” mà đưa bà vào cung để dạy dỗ phi tần …”[44]
2.“Khóa thi thứ VIII năm Bính Thìn (1616) tại trường Quốc học Bản Thảnh, Cao Bình, Cao Bằng có bà Nguyễn Thị Duệ đỗ thủ khoa tiến sỹ. Bà là nữ tiến sỹ đầu tiên của nước ta. Bà quê làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; tên hiệu là Diệu Huyền, tên húy là Du, còn có tên là Ngọc Toàn. Năm bà lên 10/ (11-P.Đ.N.) tuổi (1606), theo cha lên Cao Bằng, giả dạng làm nam để đi học, đi thi. Bà sinh ngày 14-3-1595, năm 20 /(21-P.Đ.N.) tuổi đỗ tiến sỹ. Vua thấy bà yểu điệu lại đỗ tiến sỹ đầu bảng nên miễn cho tội khi quân (giả trai) và mời về ly cung Đống Lân để dạy học cho hoàng tử, cung phi với danh là Tinh Phi (sao sa). Năm 1625, triều đình cử tướng Trịnh Kiều lên đánh nhà Mạc, năm ấy bà 29/(30-P.Đ.N.) tuổi, vì sợ nhà Lê đuổi bắt phải chạy trốn vào nơi biên ải xa xôi và đi tu ở chùa Sùng Phúc châu Hạ Lang. Bà trông nom, tu sửa chùa, mở lớp giảng về kinh Phật, giáo lý Phật, nên quan Đỗ Đình Bá truyền cho nhân dân ngoài vùng “lệnh cấm”, không cho ai lai vãng đến chùa để che dấu tung tích cho bà, đang bị vua Lê truy tìm. Tên xã Lệnh Cấm có từ đó.”[45]
Bài này do nhóm tác giả phần lớn là người Cao Bằng viết. Khẳng định bà Nguyễn Thị Duệ thi ở Cao Bằng, các tác giả còn ghi rõ địa điểm trường thi Bản Thảnh, Cao Bình. Khi Cao Bằng bị đánh, bà bỏ đi tu ở chùa Sùng Phúc, xã Lệnh Cấm, châu Hạ Lang, Cao Bằng, “Bây giờ trong chùa Sùng Phúc còn có bệ, bát hương thờ bà”[46]
Thời gian thi là năm Bính Thìn, 1616.
Thử đối chiếu với những điều Tri Tâm viết. Ông này cho bà thi năm 1586 là đẩy thời gian về trước 30 năm (1616-1586), lúc bấy giờ bà chưa ra đời, mãi 9 năm sau bà mới được sinh ra (1595-1586).
Về địa điểm, ông ta kéo Cao Bằng về Thăng Long, cách nhau 300 km. Ông đã làm một phép phù thủy đảo lộn thời gian và không gian. Phép phù thủy đó nhằm vu khống vua Mạc Mậu Hợp cưỡng bức bà Nguyễn Thị Duệ. Lương tâm ông để đâu?
KẾT LUẬN
1. Với bài viết hơn 20 trang giấy, tác giả chỉ mong độc giả “điều chỉnh nhận thức về hoàng đế Mạc Mậu Hợp”.
2. Người đã cầm bút viết về các nhân vật có danh tiếng, phải học, phải đọc, không thể vu oan, bịa đặt vô căn cứ. Người phụ trách cơ quan báo chí là người thay mặt Nhà nước, cần chịu trách nhiệm về tính chính xác ngôn luận của mình.
3. Kết luận khoa học nào cũng không thể là chân lý tuyệt đối, huống chi nhận xét về nhà Mạc, thời gian quá xa xưa, thực tế vô cùng biến động, tài liệu bị xuyên tạc và xáo trộn. Vì vậy, như đầu đề, chúng tôi chỉ dám coi đây là một “bài gợi mở”, hé ra môt khe sáng để mong dần dần lấy lại “công minh lịch sử” và thắp một nén hương gầy nhằm giảm bớt nỗi đắng cay, nhiều thế kỷ ngậm oan chốn thiên thu của các Ngài. Nhiệm vụ tiếp tục còn nhiều, mong đợi ở người sau và các thế hệ sau./.
P.Đ.N.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
-Ban liên lạc họ Mạc: Hợp biên thế phả họ Mạc, NXB Văn hóa dân tộc, H, 2007.
-Nguyễn Tiến Cảnh,….: Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật xuất bản, H, 1993.
-Gia phả họ Ngô-Mạc ở Bình Dương, Vĩnh Phúc
– Đỗ Thị Hảo: Bà tiến sỹ triều Mạc-Đỗ Thị Duệ, trong sách Kỷ yếu Hôi thảo khoa học…, Hà Nội. 2010.
-Khâm định việt sử thông giám cương mục, NXB Giáo dục, H,1998.
– Phạm Đăng Khoa biên soạn: Tóm tắt nội dung di tích đền- chùa Hoà Liễu, Tài liệu không xuất bản.
– Lê Thành Lân, Trần Ngọc Dũng: Hiệu chỉnh lại thời dụng của 8 niên hiệu thời Mạc, trong sách Kỷ yếu hội thảo khoa học vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, Hà Nôi, 9-2010.
-Phan Huy Lê: Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19, NXB Thế giới, H, 1995.
-Vũ Duy Mền: Một số vấn đề về làng xã dưới thời Mạc, trong sách Vương triều Mạc, NXB Khoa học xã hội,h, 1996.
-Tri Tâm: Chuyện tình thầm kín Nguyễn Thị Duệ, trong Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Số 4-2009.
-Nguyễn Xuân Toàn: Những đóng góp của nhà Mạc thời kỳ Cao Bằng, sách Kỷ yếu hội thảo…, H, 2011.
-Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, NXB Hải Phòng, Hải Phòng, 2010.
-Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia , NXB Khoa học xã hội, H, 2001.
-Phan Đăng Thuận: Kinh tế thời Mạc, Luận án thạc sỹ sư học, Trường Đại học Vinh.
-Ngô Đức Thọ….:Các nhà khoa bảng Việt Nam, (1075-1919), NXB Văn học, H. 2006.
-Nguyễn Bá Vân: Gốm thời Mạc ,trong sách Mỹ thuật thời Mạc,Viện Mỹ thuât, H, 1993.
[1] Ảnh do ThS Phan Đăng Thuận cung cấp. Ông cho biết, nhà chùa nói rằng, từ xưa truyền lại đó là tượng vua Mạc Mậu Hợp. Sách Thế phả hợp biên họ Mạc, (tr.98) có ảnh gần giống như trên cũng ghi là “Ảnh tượng chân dung Mạc Mậu Hợp”. Sách Mỹ thuật thời Mạc, có 2 ảnh gần giống như trên, (ảnh số 15, 17), ghi là “Tượng Ngọc Hoàng”. Xin ghi để xác minh thêm.
[2] Lê Thành Lân, Trần Ngọc Dũng: Hiệu chỉnh lại thời dụng của 8 niên hiệu thời Mạc, trong sách Kỷ yếu hội thảo khoa học vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, Hà Nôi, 9-2010, tr. 131.
[3] Lê Thành Lân: Kỷ yếu hội thảo…, sách đã dẫn, tr.138. (trên cơ sở nội dung, số liệu y nguyên, chúng tôi có thêm cột “ghi chú” và lược đi cột “ở niên biểu cũ”.P.Đ.N.)
[4] Về vấn đề này chúng tôi đã trình bày đầy đủ trong sách Phan Đăng Nhật: Nhà Mạc và họ Mạc-ý chí và mục tiêu chiến lược, NXB Dân trí , H, 2011.
[5] Đại Việt sử ký toàn thư – tập II, (2003), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr. 618.
6.Đào Duy Anh: Từ điển Hán Việt
[7] Nguyễn Tuấn Thịnh: Bài văn sách đình đối khoa thi tiến sỹ năm quý Mùi, trong sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Hà Nội, 1996, tr.249.
[8] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, NXB Hải Phòng, Hải phòng, 2010, tr.45.
[9] Đinh Khắc Thuân ( Văn bia thời Mạc, Nxb Hải Phòng, 2010. tr.320
[10] Bảng danh sách này dựa vào tư liệu: Phan Huy Lê: Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19, NXB Thế giới, H, 1995, tr.41-43.
[11] Nguyễn Bá Vân: Gốm thời Mạc,trong sách Mỹ thuật thời Mạc,Viện Mỹ thuât, H, 1993, tr.102.
[12] Phan Đăng Thuận: Kinh tế thời Mạc, Luận văn thạc sỹ sử học, trường Đại học Vinh
[13] Chu Quang Trứ: Hiểu về xã hội Mạc qua mấy phát hiện về mỹ thuật ở xứ Đông, trong sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, sách đã dẫn, tr.270.
[14] Nguyễn Văn Kim: Kinh tế công thương thời Mạc, trong sách “Kỷ yếu hội thảo khoa học….”, sách đã dẫn, tr.199.
[15] Đinh Khắc Thuân; Văn bia thời Mạc, sách đã dẫn , tr.321
[16] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, sách đã dẫn, tr.404.
[17] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, sách đã dẫn, tr.417.
[18] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, sách đẫ dẫn, tr.429.
[19] Ngô Đức Thọ chủ biên: Các nhà kho bảng Việt Nam (tái bản có bổ sung chỉnh lý), sách đã dẫn, tr.394-435.
[20] Nguyễn Tuấn Thịnh: Bài văn đình đối khoa thi năm Quý Mùi (1583)triều Mạc. trong sách “Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử”, sách đã dẫn, tr 243-260.
[21] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, NXB Hải Phòng, 2010, tr.48.
[22] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, NXB Hải Phòng ,2010 , tr.52.
[23] Nguyễn Du Chi: Nghệ thuật kiến trúc thời Mạc, trong sách Mỹ thuật thời Mạc, đã dẫn, tr.34.
[24] Nguyễn Du Chi: Nghệ thuật kiến trúc thời Mạc trong sách Mỹ thuật thời Mạc, sách đã dẫn, tr.134.
[25] Đại Việt sử ký toàn thư, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, tập II, H, 1998, tr.359.
[26] Khâm định việt sử thông giám cương mục, NXB Giáo dục, H,1998, tr.1012.
[27] Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, tr. 363.
[28] Theo Đinh Khắc Thuân thì: “Có lẽ đây là tên gọi do Mạc Mậu Hợp khi lên ngôi đã phong tặng cho bà nội làm Thái hoàng thái hậu” (Lịch sử triều Mạc, sách đã dẫn, tr.233)
[29] Lập các hội Thiện để tổ chức phong trào làm việc thiện “Các bia dựng trong các chùa , miếu cho biết hội Thiện khá phát triển . Từ các vương hầu tôn thất , quan lại (nhà Mạc) tại vị hoặc hưu quan đến thường dân các làng xã đều đua nhau làm việc thiện…”[29] ) Vũ Duy Mền: Một số vấn đề về làng xã dưới thời Mạc, trong sách Vương triều Mạc, NXB Khoa học xã hội,h, 1996, tr.138-142.
[30] Phạm Đăng Khoa biên soạn: Tóm tắt nội dung di tích đền- chùa Hoà Liễu, Tài liệu không xuất bản, tr.34-35.
[31] Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia , NXB Khoa học xã hội, H, 2001, tr.232.
[32] “Kim Thái hoàng thái hậu dĩ thiên mẫu vi phật trung trần”. Văn bia chùa Quang Minh (Gia Lộc, Hải Dương ) năm 1579. Bia 151. Chú thích theo Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc… sách đã dẫn, tr, 233.
[33] Đinh Khắc Thuân, sách đã dẫn, tr.233.
[34] Đại Việt sử ký toàn thư, tâp III, sách đã dẫn, tr.156.
[35] Đại Việt sử ký toàn thư, tập III, sách đã dẫn, tr. 177
[36]. Đại Việt sử ký toàn thư,tập III, sách đã dẫn, tr.168-169.
[37] Đại Việt sử ký toàn thư , tập III, sách đã dẫn, tr,172.
[38] Ban liên lạc họ Mạc: Hợp biên thế phả họ Mạc, NXB Văn hóa dân tộc, H, 2007, tr106.
[39] Đai Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, tr.210.
[40] Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, tr.178.
[41] Gia phả họ Ngô-Mạc ở Bình Dương, Vĩnh Phúc
[42] Tri Tâm: Chuyện tình thầm kín Nguyễn Thị Duệ, trong Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Số 4-2009, tr.38-39.
[43] Ngô Đức Thọ….:Các nhà khoa bảng Việt Nam, (1075-1919), NXB Văn học, H. 2006, tr.423-428,
[44] Đỗ Thị Hảo: Bà tiến sỹ triều Mạc-Đỗ Thị Duệ, trong sách Kỷ yếu Hôi thảo khoa học…, Hà Nội. 2010, tr.266.
[45] Nguyễn Xuân Toàn, Nguyễn Thiện Tứ, Lê Văn Tới: Những đóng góp của nhà Mạc thời kỳ Cao Bằng, trong sách Kỷ yếu hội thảo khoa hoc…, Hà Nội, 2011, tr.77.
[46] Nguyễn Xuân Toàn,….:Những đóng góp của nhà Mạc…,sách đã dẫn, tr.81.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- TỌA ĐÀM VỀ HAI BIA ĐÁ TÌM THẤY TẠI HUYỆN TIÊN LÃNG, TP. HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.