- Đang online: 2
- Hôm qua: 815
- Tuần nay: 19214
- Tổng truy cập: 3,370,097
Thêm những thông tin về vua Mạc Mậu Hợp 566
- 210 lượt xem
Thêm những thông tin về
vua Mạc Mậu Hợp
GS.TSKH Phan Đăng Nhật
LTS: Trên ĐS&PL Chủ nhật số 17 ra ngày 4/4/2012 có đăng bài viết “Sự thật về việc mất ngôi báu của vị vua “háo gái” không “thuốc chữa””. Sau khi báo ra, tòa soạn nhận được bài viết phản hồi về vị vua Nhà Mạc này, để rộng đường dư luận, ĐS&PL cho đăng tải bài viết của GS.TSKH Phan Đăng Nhật, cung cấp thêm những tư liệu nhằm làm sáng tỏ về vị vua này.
Chuyện vị vua cầm quyền lâu nhất nhà Mạc
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp, là vị vua thứ 5 của nhà Mạc, vốn là vị vua cầm quyền lâu nhất, 27 năm (1565 -1592) ở Thăng Long. Một mặt kế thừa di sản để lại của tiên đế, mặt khác ông phải gánh chịu những tổn thất nặng nề do hoàn cảnh gây nên cho số phận của nhà Mạc. Những tổn thất đó dẫn đến việc hoàng đế Mạc Phúc Nguyên lên ngôi khi còn quá ít tuổi (6 tuổi), đồng thời dẫn đến vụ chia rẽ nghiêm trọng giữa hai bậc đại thần Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi và Khiêm vương Mạc Kính Điển; đặc biệt là việc qua đời đột ngột của “Kình thiên trụ” Khiêm vương Mạc Kính Điển, mà sử đã ghi “khiến lòng người trong cõi dao động”. Trong hoàn cảnh như vậy, ông vẫn giữ vững ý chí sắt đá phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược của nhà Mạc: xây dựng một nền kinh tế đa diện, cố gắng đem lại đời sống tốt đẹp cho các tầng lớp nhân dân; thực hiện một nền giáo dục sùng Nho đến cùng, đồng thời tôn trọng Phật, Lão, thần làng; xây dựng một nếp văn hóa tư tưởng cởi mở, nhân văn, tôn trọng con người, tôn trọng văn hóa dân gian.
Trong chính sách kinh tế, ông coi nông nghiệp là nghề gốc, nhưng đồng thời cũng ra sức phát triển công thương nghiệp. Cụ thể như: Làm chợ (9 cái), xây cầu (10 chiếc), gốm sứ có minh văn (nay còn lại 5 sản phẩm)… Một nền kinh tế đa diện và năng động hình thành và phát triển, bước đầu đem đến sự phồn vinh cho xã hội, mọi tầng lớp nhân dân đều được hưởng lợi, đặc biệt là tầng lớp dân thường: người làm ruộng, người buôn bán, người đánh cá, kẻ chăn trâu… đều hồ hởi (Theo văn bia thời Mạc Mậu Hợp). Vua Mạc Mậu Hợp đã đào tạo, tuyển chọn nhân tài qua các kỳ thi cử. Làm vua 27 năm ông tổ chức đúng 10 kỳ thi, cứ 3 năm một kỳ, tổng cộng lấy 175 tiến sỹ. Kỳ cuối cùng, tình hình chính sự nguy nan, Trịnh Tùng đã đánh sát kinh kỳ, ông vẫn quyết cho thi để tuyển chọn thêm cho đất nước 17 tiến sỹ trong đó có 4 thám hoa.
Đúng là “Mạc Thị sùng Nho” nhưng không độc tôn Nho giáo. Dưới thời ông, Phật giáo, Đạo giáo và thần làng được tôn sùng, số chùa được xây dựng (52 ngôi), số đạo quán (7/8 ngôi), số đình làng (5/11 ngôi). Riêng đình Lỗ Hạnh và đình Tây Đằng là hai ngôi đình đặc sắc, tiêu biểu và lâu đời nhất trong các công trình kiến trúc công cộng được xây dựng và trùng tu vào thời này.
Về cá nhân, vua Mạc Mậu Hợp là một vị vua có học vấn, có trí lực, thẻ lực, văn võ kiêm toàn, có trách nhiệm cao đối với tiên liệt và lịch sử, trong hoàn cảnh nguy nan đã rời bỏ ngai vàng, giao cho con trai, nhận nhiệm vụ nặng nề nhất là tổng chỉ huy toàn quân, cầm đầu hai cuộc chiến đấu, trực tiếp đối đầu với Trịnh Tùng. Không chỉ có ông nêu gương dũng lược mà con trai là Mạc Toàn và mẹ già Quốc mẫu cũng đều xông lên hy sinh vì sự nghiệp nhà Mạc.
Hoàn cảnh lịch sử không cho phép lật ngược ván cờ. Hoàng đế Mạc Mậu Hợp thất trận. Nhưng các thế hệ hậu duệ của ông vẫn kế tiếp nhau chiến đấu vì mục tiêu chiến lược của nhà Mạc, qua thời kỳ Cao Bằng, đến thời kỳ hậu Cao Bằng và có thể coi là chấm dứt khi thủ lĩnh Hoàng (Mạc) Công Chất qua đời ở Điện Biên năm 1769.
Ảnh thờ Hoàng đế Mạc Mậu Hợp ở Khu tưởng niệm Vương triều Mạc (xã Ngũ Đoan, Kiến Thụy, Hải Phòng). Ảnh: Ngô Minh Khiêm
Sự thật hai vị tướng Nguyễn Quyện và Bùi Văn Khuê
Nguyễn Quyện và Bùi Văn Khuê hai người đều là tướng tài được trọng dụng và quyết tâm chiến đấu dưới lá cờ nhà Mạc. Ngày 6 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, cả hai tướng đều chiến đấu cố thủ kinh thành.
Nguyễn Quyện giữ từ Mạc Xá trở về Đông. Mạc Mậu Hợp tự đốc quân xuất thủy quân. Trận này bên Mạc thua to. Con của Quyện là Bảo Trung, Nghĩa Thạch và thủ hạ tinh binh đều cố sức đánh, đều chết trận. Nguyễn Quyện bị bắt. Trịnh Tùng nói lời ân nghĩa dụ hàng, Quyện không nghe, sau vì con là Nguyễn Tín mưu chống lại Lê – Trịnh nên bị giam mãi, chết trong ngục (Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Như vậy cả gia đình của Nguyễn Quyện đều hy sinh dưới ngọn cờ chiến đấu của nhà Mạc.
Cùng thời gian và sự kiện lịch sử này, Bùi Văn Khuê lại có cách ứng xử khác: “Khuê đem quân bản bộ, tự động bỏ về huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đóng quân ở đấy không ra nữa. Mậu Hợp cho gọi hai ba lần không được bèn sai tướng đen đến hỏi tội Khuê” (Theo Toàn Thư).
Như vậy có thể thấy, cùng trung thành với nhà Mạc,nhưng một bên chiến đấu cho đến chết cả 4 cha con còn một bên tạm giả đầu hàng. Bùi Văn Khuê đã chiến đấu đến những ngày cuối, biết rõ Thăng Long không thể cứu vãn nên quyết định đầu hàng Trịnh (lúc bấy giờ Thăng Long đã mất, không phải họ Bùi về đánh Thăng Long). Tuy nhiên ông biết Trịnh Tùng vốn hiếu sát và đa nghi, đã giết hại vua Lê Anh Tông và biết bao người thân tín Vì vậy, Khuê phải có một lý do thật mạnh mẽ để tạo lòng tin cho Trịnh Tùng đó là: Mạc Mậu Hợp định giết Khuê để cướp vợ. Đây chỉ là cái cớ thoát thân tạm thời. Cụ thể là sau đó, Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn quay trở về với nhà Mạc, chống lại nhà Trịnh: “Khi ấy (1600), bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê đem quân phụ theo họ Mạc, chiêu an các thành thị… Ngạn xưng là Tiết chế Sính quốc công, Đình Nga tự xưng là Thái bảo Hoa quận công, em Ngạn tự xưng Tiền bộ dinh Quỳnh quận công dùng niên hiệu Càn Thống của họ Mạc (vua Mạc Kính Cung) trong các bảng yết thị hoặc lệnh cấm” (Toàn thư tr.208-209).
Bằng sự phân tích tổng thể các nhân vật và sự kiện liên quan, trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, có thể nhận định: Thông tin vua Mạc Mậu Hợp mưu giết Bùi Văn Khuê để lấy vợ Khuê chỉ là một cái cớ do Khuê viện ra, để trót lọt việc tạm đầu hàng Trịnh Tùng.
Vì sao cơ đồ nhà Mạc sụp đổ?
Triều Mạc có hai giai đoạn lịch sử, ở Thăng Long – Dương Kinh 65 năm, ở Cao Bằng 91 năm, tất cả 156 năm. Riêng thời kỳ Thăng Long -Dương Kinh kết thúc bi thảm bằng việc thất thủ kinh đô. Sự thất bại của nhà Mạc do một hệ nguyên nhân. Điển hình là việc mất đoàn kết trong triều đình nhà Mạc, tiêu biểu là vụ Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi và Khiêm vương Mạc Kính Điển. Hai ông đều là đại trung thần nhà Mạc, đều có tài nghiêng trời lệch đất. Chỉ tiếc là quan niệm về chọn người kế vị ngai vàng khác hẳn nhau nên dẫn đến việc đem quân đánh lại nhau gây tổn hại về binh lực và tinh thần rất lớn. Hơn nữa, các vị vua nối ngôi về sau không giữ được những phẩm chất tốt đẹp của các bậc Tiên đế, cũng góp phần khiến cho cơ nghiệp tổ tông không giữ được. Tuy nhiên chúng ta cần thận trọng trong việc kết luận & phán xét để không đổ tội oan cho tiền nhân. Kéo theo là nhà Mạc có một giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng về thủ lĩnh: 1540 vua Mạc Đăng Doanh mất, 1541 vua Mạc Đăng Dung mất, 1546 vua Mạc Phúc Hải mất.
Như vậy, cá nhân anh hùng có vai trò quan trọng ở mức độ nhiều hay ít, do tình hình cụ thể. Trong bối cảnh bấy giờ, sau tháng 8 năm 1592, thiếu Bùi Văn Khuê là thiệt thòi lớn, nhưng xét việc vương triều Mạc thất thủ ở Thăng Long – Đông Đô phải xét cả 4 nguyên nhân nêu trên, không thể quy vào một mình Bùi Văn Khuê. Vả lại Bùi Văn Khuê đã hết sức cố gắng chiến đấu bên cạnh các chiến hữu danh tiếng như Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn, Phan Ngạn… dưới sự tổng chỉ huy của vua Mạc Mậu Hợp mà không thay đổi được thế trận. Sau đó ông mới làm động tác đầu hàng (tạm thời) để tìm cơ hội “phục quốc”.
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp đã có quyết tâm sắt đá, kiên trì thực hiện mục tiêu chiến lược của Tiên đế cho đến cùng, về các mặt: quân sự, kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa, tư tưởng. Về cá nhân, ông là một người có học thức, có trí tuệ, kiêm toàn văn võ, khiêm ái, thận trọng… Gia đình ông, cả ba thế hệ đã kế tục hy sinh tận tụy, chiến đấu để bảo vệ đến cùng sự nghiệp của tổ tông và đất nước. Về sự thất bại của Nhà Mạc có nhiều nguyên nhân như đã trình bày ở trên. Những vị trọng thần đã chiến đấu bên cạnh vua Mạc Mậu Hợp cho đến ngày cuối đã nhận định có nhiều nhận định về thất bại này, tuyệt nhiên không trách cứ vua Mạc Mậu Hợp: “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời… Bọn ta nên tránh ra nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại, mới có thể làm được” (Lời di chúc của Phò mã đô úy thái phó Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn – Đại Việt sử ký toàn thư, tr 189). “Trời đã bỏ họ Mạc thì người anh hùng cũng khó ra sức” (Lời của Nguyễn Quyện – Đại Việt sử ký toàn thư, tr 173).
P.Đ.N
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.