- Đang online: 2
- Hôm qua: 942
- Tuần nay: 40790
- Tổng truy cập: 3,471,972
HOÀNG ĐẾ MẠC KÍNH VŨ Ở CAO BẰNG 555
- 1655 lượt xem
HOÀNG ĐẾ MẠC KÍNH VŨ
Ở CAO BẰNG- TRUNG QUỐC VÀ THỜI KỲ CUỐI ĐỜI
GS.TSKH. Phan Đăng Nhật
MINH TÔNG KHAI HOÀNG ĐẾ MẠC KÍNH VŨ
Mở đầu
1.Suốt đời Hoàng đế Mạc Kính Vũ đã trải qua một cuộc chiến đấu và đấu tranh vô cùng ác liệt với kẻ địch, do đó phải thay tên đổi họ nhiều lần. Theo tài liệu chúng tôi được biết thì Ngài được gọi theo các tên: Mạc Kính Vũ, Mạc Kính Hoàn, Mạc Kính Diệu. Cũng có thể vào cùng thời kỳ lịch sử, với những cương vị khác nhau Ngài dùng những tên khác nhau. Việc này xin nhờ các vị thức giả nghiên cứu và kết luận tiếp. Trong khi chờ đợi, trong bài này, chúng tôi tạm quy ước dùng tên Mạc Kính Vũ để chỉ một vị hoàng đế nhà Mạc có những điểm đã được xác định như:
– là vì vua thứ 10 của nhà Mạc và thuộc thời kỳ Cao Bằng,
– con trai của hoàng đế Mạc Kính Khoan,
– đã cùng con trai mình là Mạc Nguyên Thanh hội đàm với Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ ở lầu Củng Bắc (Quảng Châu), năm 1661,
– đã cung tiến toàn bộ gỗ quý để xây dựng Đại phật tự (Quảng Châu),
– đã thực hiện “mật ước”với chúa Nguyễn đánh về kinh đô;
– v.v…
2. Trong các bài nghiên cứu và sách viết về nhà Mạc trước đây, chúng tôi đã kiên trì một quan điểm là: suốt thời gian cầm quyền 156 năm và kể cả sau khi mất ngai vàng,( thời kỳ hậu Cao Bằng ), trong suốt 242 năm, nhà Mạc và hậu duệ luôn giữ vững một ý chí sắt đá nhằm thực hiện một mục tiêu chiến lược gồm 4 điểm:
– quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, “không để cho người Minh đặt chân lên đất nước ta” (Mạc Ngọc Liễn);
– đánh đổ phong kiến Lê-Trịnh là tập đoàn bảo thủ lạc hậu cố “kéo lùi bánh xe lịch sử” (Trần Quốc Vượng);
– xây dựng một nền kinh tế đa diện, đem lại đời sống no đủ, an bình cho
nhân dân, “cổng ngoài không phải đóng, của rơi ngoài đường không ai nhặt” ( Đại Việt sử ký toàn thư );
– thiết lập một nền văn hóa tư tưởng phóng khoáng cởi mở, tính nhân văn cao, tôn trọng con người , tôn trọng sáng tạo nghệ thuật, xây dựng “một nền nghệ thuật phong phú, đa dạng, đặc sắc của văn hóa dân tộc” (Trần Lâm Biền) , tôn sùng đa tôn giáo -tín ngưỡng : Nho , Phật, Lão, Mẫu, Thần làng,…và coi trọng văn hóa dân gian.
3.Với 242 năm tồn tại, kể cả thời kỳ có và không có ngai vàng , có thể nói nhà Mạc được nhân dân ủng hộ và đã có công lao với đất nước, GS Văn Tạo đã viết: “Nhà Mạc đã có cống hiến nhất định với lịch sử dân tộc. Công lao dựng nghiệp của Mạc Đăng dung đối với nhà Mạc là lớn lao và sự nghiệp dựng nước của nhà Mạc đã được sử sách ghi nhận.Hậu thế chúng ta cần trân trọng và phát huy”
Trong bài này, chúng tôi tiếp tục luận điểm trên, làm sáng tỏ vai trò của hoàng đế Mạc Kính Vũ là một nhà vua lỗi lạc về việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của các bậc tiên đế, trong hoàn cánh lịch sử của mình.
Bài được chia làm hai phần chính:
-Ở Cao Bằng- Trung Quốc
-Thời kỳ cuối đời và vùng đất Vĩnh Phúc
***
Phần một
HOÀNG ĐẾ MẠC KÍNH VŨ Ở CAO BẰNG- TRUNG QUỐC
I.Ngài chiến đấu chống phong kiến Lê-Trịnh quyết liệt.
Ngài là con của Quang Tổ Nguyên hoàng đế Mạc Kính Khoan. Khi thân phụ băng hà, Ngài tỏ thái độ và hành động chống đối phong kiến Lê-Trịnh rõ rệt , lên ngôi vua, xưng niên hiệu Thuận Đức, không báo tang cho nhà Lê và không nộp cống.
“Mùa xuân, tháng giêng,(1938), Mạc Kính Khoan, tước Thông quốc công ở Cao Bằng mất. Con (là) Mạc Kính Vũ lại làm phản, tiếm đặt niên hiệu là Thuận Đức.”[1]
Được tin, nhà Lê- Trịnh tức giận khẩn trương cất quân đi đánh. Việc lên ngôi xẩy ra tháng giêng thì tháng 3 chúa Trịnh trực tiếp dẫn đại quân đi Cao Bằng “chinh phạt”. Kết quả là thất bại, một tướng bị quân Mạc bắt, một tướng bỏ chạy, bị chúa Trịnh trị tội, giết.
“Tháng 3, sai Đặng Thế Tài lưu lại giữ kinh sư, Chúa thân đem các quân đi đánh Cao Bằng. Quân tiến trước đánh bị thua, thuộc tướng là quận Hạ bị giặc bắt; quận Lâm ra trận sợ chạy, bị tội giết. Bèn rút quân về”[2]
Cùng năm đó , chúa Trịnh lại huy động quân đi đánh nhà Mạc, quân Mạc tránh vào rừng an toàn. Quân Trịnh ở lại 10 ngày rồi rút lui . Mục đích cuộc hành quân không đạt được gì, cũng coi như không thành công.
“Tháng 12, (1638) ngày Tân Sửu, tiến vào Cao Bằng , chia quân đánh các châu Quy Thuận, Thượng Lang, Hạ Lang. Giặc đều tan chạy vào rừng núi, không để lại dấu vết. Quan quân lui lại 10 ngày rồi rút về”[3]
Tác giả Ngưu Quân Khải nhận định đúng về khả năng tự vệ của quân dân Cao Bằng dưới quyền vua Mạc Kính Diệu/Vũ và sự bất lực của chúa Trịnh trong một thời gian dài.
“Năm 1638, Mạc Kính Khoan mất, con là Mạc Kính Vũ xưng vương, đặt niên hiệu là Thuận Đức, Hậu Lê nghe thấy thế, liền cử quân lên tiến đánh Cao Bằng, nhưng bị bại. Năm 1644, Hậu Lê lại cử quân đánh liên tiếp vào Cao Bằng, nhưng vẫn không thể diệt được chính quyền nhà Mạc” [4]
Thực ra không chỉ đến năm 1644 mà mấy chục năm sau, sử không ghi cuộc phản công nào lớn của nhà Trịnh .Cho đến 1966, Hà Sỹ Tứ đi đánh nhà Mạc, thua, bị bắt. Chúa Trịnh sai đem đại quân đánh trả đũa và giải cứu, nhưng hai mục đích ấy đều không đạt.
“Bính Ngọ (1666). Bấy giờ con cháu họ Mạc là Kính Vũ . chiếm cứ Cao Bằng, làm hại dân địa phương. Phiên tướng Thái Nguyên là Thông quận công Hà Sỹ Tứ đem quân bản xứ đi đánh , bị giặc bắt được. Tin báo về , Vương sai Thái phó Lý quận công Trịnh Đống làm thống lĩnh, Thiếu úy Hào quận công Lê Thì Hiến làm phó, Hồng lô tự khanh Cảo Xuyên nam Trịnh Thì Tế, Lại khoa cấp sự trung Đỗ Thiện Chính đem các quân tiến đánh. Kính Vũ bèn giết Thông quận công Hà Sỹ Tứ, bỏ sào huyệt chạy vào rừng núi. Thế là quan quân phóng lửa dốt cháy chỗ ở của Kính Vũ rồi về.”[5]
Chúa Trịnh kêu gọi thống thiết các châu quận Trung Quốc hợp lực đánh vua Mạc Kính Vũ, không ai hưởng ứng.
“Đặc biệt, để chu đáo chuẩn bị cho đánh lớn quyết tiêu diệt bằng được nhà Mạc [nguyên bản ghi là “Mạc Kính Vũ và Mạc Kính Mân”], trước khi lên đường, từ tháng 6, phía Lê Trịnh trao đổi rất nhiều thư từ cho thổ ti và tướng lĩnh nhà Minh ở vùng biên giới Việt – Trung hẹn hội quân ở Thượng Lang và Hạ Lang vào hạ tuần tháng 10 (như viên tướng ở doanh Quỳ Đạo, tri châu Hạ Phiên họ Hứa, tri châu An Ninh họ Lí, tri châu Qui Thuận họ Sầm, tri ti sứ ti Hồ Nhuận,..). Tuy nhiên, khi quân Lê Trịnh đã lên đến điểm hẹn, thì quân châu nhà Minh đều không đến ! Chiến dịch chuẩn bị chu đáo cuối cùng cũng không có kết quả gì [Viện Khoa học Xã hội Việt Nam 2009c : 415-416; Lê Quí Đôn 2012b : 274-287].”[6]
“Chúa Trịnh Tráng lại viết thư gửi tới các viên tri châu châu Hạ Phiên, thuộc Quảng Tây, họ Hứa; tri ty sứ ty Hồ Nhuận; tri châu châu Hướng Vũ, họ Hoàng; tri châu châu An Ninh, họ Lý; tri châu châu Quy Thuận họ Sầm; hẹn hò cùng đem quân tới đánh diệt Kính Vũ. Quan ở các châu ấy đều có thư nhận lời”[7]
Sau đây là một số thư của chúa Trịnh, lời lẽ phô trương và kêu gọi thống thiết các châu huyên Trung quốc:
“Tôi, đại nguyên soái tổng quốc chính, sư phụ Thanh vương nước An Nam, xin trả lời ngài tri châu Hạ Phiên, thuộc Quảng Tây là phụng trực đại phu gia hàm chiêu nghị tướng quân họ Hứa như sau:
Tôi thường nghe nói: chữ tín là để hoàn thành điều nghĩa, uy vũ là để ra oai với kẻ địch. Nước tôi mấy lần đem quân đi đánh kẻ phản bội, diệt bọn trốn tránh pháp luật…..Hẹn đến hạ tuần tháng này tiến đến địa phận châu Thượng Lang, Hạ Lang, tới thăm doanh đội chúng tôi, từ từ xem xét thế công thế thủ mà thu lấy công bình dịnh giặc, bắt lấy đồ đảng Mạc Kính Vũ, Mạc Kính Mân….”[8]
“Nay tôi cầm đại quân, đem dội quân được cả thiên hạ ủng hộ này, mà đánh dẹp cái bọn bị ngay người thân thích chống lại, có khác gì đem cả lò lửa mà đốt một sợi lông, đem núi Thái sơn đè lên quả trứng. Đại quân của tôi tiến đánh hẹn vào hạ tuần tháng này tiến tới địa phương Thượng Lang, Hạ Lang đóng đại doanh. Rồi sẽ diệt trừ giặc ác, vỗ yên dân địa phương. Quý hầu hãy nên hăng hái vùng lên! Theo đúng kỳ hẹn, tới hội binh, chớ giữ lòng nghi ngờ trước”[9]
Tuy nhiên , quân các châu nhà Minh tất cả đều không đến , chúa Trịnh Tráng thất vọng chờ 2 tháng rồi rút quân về. Điều này chứng tỏ tín nhiệm của vua Mạc Kính Vũ đối với các châu hơn hẳn so với chúa Trịnh.
“Chúa tổng thống lĩnh đại quân định ngày 10 tháng 10 tiến phát. Quân đóng ở thành Lạng Sơn, đợi viên hầu mệnh về báo tin. …..Các quân châu nhà Minh đều sai hẹn không đến. Nhân đó Chúa bèn đem quân đến đóng ở địa giới Bắc Nẫm….Tháng 12 rút quân về”[10]
Đánh chiếm thành Lạng Sơn, chờ chúa Nguyễn ra để cùng giải phóng kinh đô
Tóm lại trong suốt thời gian dài, Minh Tông Khai hoàng đế Mạc Kính Vũ cầm quyền ở Cao Bằng, chúa Trịnh bao phen hao binh tổn tướng mà không hề đẩy lùi được nhà Mạc. Hơn nữa, trong thời gian đó, vua Mạc Kính Vũ đã chuẩn bị đầy đủ lực lượng chiếm Lạng Sơn, đánh đuổi “một vạn hùng binh” nhà Trịnh chạy dài, đóng giữ Lạng Sơn, chờ hợp sức với chúa Nguyễn với dự định “đánh phá kinh đô bắt sống cha con Thanh vương”. Thanh thế thật lẫy lừng.
“Thuận Đức vương, tức Mạc Kính Hoàn / Mạc Kính Vũ nhà Mạc ở Cao Bằng đã sai tám viên đại tướng đem quân tiến đánh Trung đô. Khi tướng Mạc đến Đoàn Thành (Lạng Sơn) thì Thanh vương Trịnh Tráng sai thái bảo Khê quận công Trịnh Trượng, Hộ khoa đô cấp sự trung Hưng Tạo tử cầm đầu mười hai viên quận công đem một vạn hùng binh tiến đánh Cao Bằng. Quân của Khê quận công bị quân Cao Bằng đánh gấp. Quận Khê thua to phải chạy về sông Thương. Quân Cao Bằng đóng giữ ở Đoàn Thành, đợi quân nam tiến ra , thì kéo thẳng xuống đánh phá kinh đô bắt sống cha con Thanh vương, Tây Định hiến nạp cho Nam chúa để làm vật tiến kiến” [Nguyễn Khoa Chiêm 1997 : 320].”[11]
Sự kiện lịch sử quan trọng trên đây , không thấy chính sử Lê-Trịnh nhắc đến. Vậy cụ thể là như thế nào?
“Lúc bấy giờ, cuối năm Ất Mùi (1655), Nguyễn Hữu Dật (cùng với Nguyễn Hữu Tiến, là hai tướng chủ chốt ở Đàng Trong), muốn được ngoại ứng để chia lực lượng quân Trịnh, bèn khiến bọn Văn Tường và Hoàng Sinh đem mật thư lẻn đến các trấn Bắc Hà để chiêu dụ hào kiệt, hẹn cùng nổi lên. Ở Cao Bằng thì Mạc Kính Vũ, ở Hải Dương thì tên Phấn (không rõ họ, bấy giờ gọi là quận công), ở Sơn Tây thì Phạm Hữu Lễ, đều vâng mệnh, nói rằng: hễ quân chúa qua sông Lam thì phát binh hưởng ứng. Hải Dương thì không nộp tô thuế để cho tuyệt lương, Cao Bằng thì tiến chiếm Đoàn Thành (nay là tỉnh lỵ Lạng Sơn) để chia thế lực. Sơn Tây thì nguyện làm nội ứng để cướp lấy thành”[12]
Tuy nhiên, kế hoạch này không thành hiện thực. Lý do là, đến tháng 4 năm 1657, Trịnh Tráng chết, chúa Nguyễn Phúc Tần đã tới Hà Tĩnh ( xã Vân Cát, huyện Thạch Hà), nhưng vì không nỡ đánh người không có tang, bèn cử người đến viếng Trịnh Tráng rồi dẫn quân hồi loan.
Sau này , vào tháng 9 năm 1659, Trịnh Tạc lên thay Trịnh Tráng, biết Phạm Hữu Lễ mưu phản đã bắt, xét hỏi và giết đi. Nhóm Nguyễn Hữu Dật hay tin, vô cùng thương tiếc, lập đàn để tế (!)[13]
Vì “không đánh người có tang” mà chúa Nguyễn đơn phương bội ước, đã gây tai hại nặng nề cho các bên cùng mật ước. Riêng vua Mạc Kính Vũ sau khi đã hoàn thành xuất sắc phần nhiệm của mình thì bị chặn đứng lại vì chủ trương nguy hiểm “không đánh người có tang.”
II.Về ngoại giao, Ngài không theo Ngô Tam Quế như lời vu khống của phong kiến Lê-Trịnh, mà nhất quán trước sau, sớm hợp tác với nhà Thanh để thực hiện mục tiêu chiến lược của mình.
Nhiều nhà nghiên cứu phê phán nhà Mạc-vua Mạc Kính Vũ đã theo đuổi một chính sách ngoại giao không nhất quán, khi thì theo Ngô Tam Quế chống Thanh, khi thì theo nhà Thanh.
“Về sau, Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở đất Vân Nam và Quảng Tây, Mạc Kính Vũ đứng về phía Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh”[14]
“Nhìn toàn cục về chính sách của nhà Mạc đối với các vương triều phong kiến Trung quốc có thể thấy, họ tỏ rõ thái độ thực dụng chủ nghĩa. Trước là theo nhà Minh, sau lại theo nhà Thanh, rồi lại theo Ngô Tam Quế phản lại Thanh, đều không có lý tưởng chính trị cơ bản gì cả, mà chỉ là vì để kéo dài sự thống trị của mình. Chính sách đối ngoại không có nguyên tắc, kiểu gió chiều nào che chiều ấy như thế, cuối cùng đã có kết quả là vờn lửa tự thiêu.”[15]
“Mạc Kính Vũ lại đầu hàng Ngô Tam Quế, một tướng cũ của nhà Minh, chiếm giữ vùng Vân Nam, Quảng Tây để chống lại nhà Thanh. Nhưng chẳng bao lâu, Ngô Tam Quế bị thất bại, nhà Thanh chiếm lại đất Vân Nam, Quảng Tây, làm cho nhà Mạc mất chỗ nương tựa”[16]
Thực ra không phải như vậy, vua Mạc Kính Vũ không đi theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh.
Sau đây là sự kiện cụ thể:
1. Đi trước Lê-Trịnh trong việc thiết lập ngoại giao với nhà Thanh và được phong An nam đô thống sứ.
“Vào năm 1659 (Thuận Trị 16, Kỉ Hợi): Lúc này nhà Thanh gần như đã làm chủ được phương nam, nhà Nam Minh suy yếu cực độ. Trong sách Quốc triều nhu viễn kí biên soạn đời Thanh, có ghi: vào năm đó “An Nam nhập cống安南入貢”. “An Nam” ở đây có thể xác định rõ là Mạc Kính Diệu, vì tiếp theo, Quốc triều nhu viễn kí có diễn giải rằng, năm đó, đại quân nhà Thanh tiến đánh Vân Nam, Mạc Kính Diệu đến nạp khoản và dâng cống vật , phía nhà Thanh ban chiếu phong cho Mạc Kính Diệu làm An Nam đô thống sứ [Vương Chi Xuân 1968 : 66-68.”[17]
“Sự kiện này diễn ra vào ngày 21 tháng 6 năm 1659, khi Tín Quận vương và Hồng Thừa Trù là hai trọng thần của nhà Thanh đang tham gia vây hãm Vân Nam. Cho nên có thể hiểu “đại quân nhà Thanh tiến đánh Vân Nam” trong khi “đại quân nhà Thanh tiến đánh Vân Nam, Mạc Kính Diệu đến nạp khoản và dâng cống vật cho quân, phía nhà Thanh ban chiếu phong cho Mạc Kính Diệu làm An Nam đô thống sứ” ở trường hợp 2 (sách Quốc triều nhu viễn kí) là đại quân có sự tham gia của Tín Quận vương và Hồng Thừa Trù. Họ đang ở Vân Nam.”[18]
“Như vậy, có thể hiểu, trong cùng một năm 1659, vào mùa hè, chính xác là ngày 21 tháng 6, Mạc Kính Diệu cử sứ giả đến ngoại giao với nhà Thanh tại Vân Nam. Sứ giả có thể là nhóm Vũ Công Tư ở Tuyên Quang. Và sau đó, đến cuối năm, Mạc Kính Diệu lại cử sứ giả đến ngoại giao với nhà Thanh tại vùng Lưỡng Quảng.”[19]
“Bản thân nhà Thanh sau này cũng công nhận Mạc Kính Diệu đã đi trước trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Thanh. Trong một sắc dụ cho vua Lê vào năm 1668 (Khang Hi 7), hoàng đế nhà Thanh đã viết rằng: “Mạc Nguyên Thanh đưa đồ cống tới xin qui thuận trước, trẫm đã trao cho chức Đô thống sứ; nhà người sau đó mới tới cống xin qui thuận, trẫm đã phong làm vương”[ Thanh thực lục bản A-II-1: 356-1]. Trong câu này, hoàng đế nhà Thanh nhắc đến Mạc Nguyên Thanh, nhưng thật ra cần hiểu là “thế hệ trước của Mạc Nguyên Thanh”, tức là Mạc Kính Diệu (đã mất từ năm 1661). Tương tự như vậy, “nhà ngươi” cũng nên hiểu là “thế hệ trước của nhà ngươi”. [20]
“Quốc triều nhu viễn kí có diễn giải rằng, năm đó, đại quân nhà Thanh tiến đánh Vân Nam, Mạc Kính Diệu đến nạp khoản và dâng cống vật cho quân Thanh, phía nhà Thanh ban chiếu phong cho Mạc Kính Diệu làm An Nam đô thống sứ [Vương Chi Xuân 1968 : 66-68. “[21]
“Vào ngày 29 tháng 9 âm lịch năm 1659, đoàn sứ giả của Mạc Kính Diệu cử đến gồm 28 người và 4 chiếc thuyền, đi theo đường thủy đến Thái Bình (thuộc tỉnh Quảng Tây). Sau đó, được dẫn đến Nam Ninh (thủ phủ của tỉnh Quảng Tây).”[22]
“Từ năm 1661 đến năm 1679, Mạc Kính Diệu tiếp tục cử sứ đi triều cống nhà Thanh (đi theo đường Quảng Tây, Hồ Quảng, đến Giang Nam thì chuyển xuống đi thuyền đến kinh đô). Chẳng hạn, năm 1673, Mạc Kính Diệu đã cử nhóm Nguyễn Công Duệ阮公睿và Trần Quang Hoa陈光华 đi cống, qua Quảng Tây vào Giang Nam, nhưng thuyền bị bốc cháy ở Giang Nam [Tôn Hoằng Niên 2006 : 69-70].”[23]
“Chúng tôi cho rằng, nhà Mạc ở Cao Bằng không quá coi trọng quan điểm của Nho giáo đối với tính chính thống của nhà Nam Minh hay tính “man di” của nhà Mãn Thanh, mà đã biết đoán định thời cuộc, đi trước nhà Lê trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mãn Thanh. Trước khi mở hướng ngoại giao theo đường Lưỡng Quảng của Lí Thế Phụng lúc đó, Mạc Kính Diệu đã cử sứ đến Vân Nam”[24].
2.Một biểu tượng đẹp và lâu bền về tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc: tòa tam bảo Đại Phật tự, Quảng Châu
Ảnh: Chu Xuân Giao
Qua tư liệu của Trung Quốc, chúng ta được biết một cách khá chi tiết về tình hình quyên trợ việc xây dựng chùa Đại Phật vào đầu thập niên 1660 của Bình Nam vương Thượng Khả Hi và cách thức mà hai bên (Bình Nam vương và An Nam vương) gặp nhau lúc đó, Có thể tóm tắt các điểm chính yếu như sau:
a. Hai bên gặp nhau vào tháng 5 năm thuận Trị 18 (1661);
b. An Nam vương có tên Mạc Kính Diệu (tức Mạc Kính Vũ), được nhà Thanh phong Quy hóa tướng quân và con Ngài là Mạc Nguyên Thanh được phong An Nam đô thống sứ;
c. Vào thời gian đó, vua Mạc Kính Vũ cùng Mạc Nguyên Thanh lên kinh để triều kiến vua Thanh, tiện đường ghé thăm các nơi ở vùng Quảng Châu-Quảng Đông, nên gặp Bình Nam vương,
d. Bình Nam vương đã mở tiệc ở lầu Củng Bắc để thết đãi An Nam vương, nhân đó mà mời các nhà sư đến kêu gọi công đức, trong dịp này An Nam vương (vua Mạc Kính Vũ) công bố cung tiến gỗ để làm chùa;
e. Gỗ mà vua Mạc Kính Vũ cung tiến có tên là gỗ Nam, là gỗ quý hiếm, có chất lượng cao đặc biệt, cao tới 10m và đường kính 2m. Vua Mạc Kính Vũ đã cho chuyển một số lớn gỗ này tới Quảng Châu;
f. Số gỗ Nam đã được dùng làm cột cái và xà ngang xà dọc, tạo nên khung nhà cho tòa Tam Bảo;
g. Đặc biệt, trải qua phong hóa và binh hỏa của hơn 300 năm, nhưng đến ngày hôm nay, tòa Tam Bảo với kết cấu bằng gỗ Nam do vua Mạc Kính Vũ cung tiến, vẫn còn gần như nguyên vẹn là một niềm tự hào của chùa Đại Phật, mà họ thường ca ngợi do An Nam vương cung tiến. Đó cũng là điều đặc biệt thú vị của khách thập phương khi tham quan chùa. (Chu Xuân Giao)[25]
Tóm lại
Một số nhà khoa học đã kết tội oan cho vua Mạc Kính Diệu/Vũ là gió chiều nào theo chiều ấy, theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh. Trái lại, Ngài đã tiên đoán được vai trò lịch sử nhà Thanh, trước cả Lê-Trịnh và sớm quy phục Thanh, không theo Ngô Tam Quế. Hơn nữa, lại xây dựng được ân tình đối với một số nhân vật quan trọng như tổng đốc Lưỡng quảng Lý Thế Phụng và Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ, mà biểu tượng đẹp còn giữ được đến ngày nay là chùa Đại Phật tự.
Bên cạnh tài năng quân sự và ý chí chống phong kiến Lê-Trịnh, như đã trình bày ở phần I, đến đây chúng ta lại tài năng chính trị-ngoại giao của vua Mạc Kính Vũ. Nhưng ở đâu ra luận điệu xuyên tạc, nói trắng thành đen, không thành có, như đã nêu trên?
Tất cả đều xuất phát từ âm mưu vu khống của Lê-Trịnh để nhằm dùng nhà Thanh diệt nhà Mạc.
“Đến khi Ngô Tam Quế làm phản ở Vân Nam, Mạc Kính Vũ theo đế hiệu tiếm ngụy của Ngô Tam Quế và giúp binh lương” (10)
“Đến khi Ngô Tam quế làm phản ở Vân Nam, Kính Vũ theo đế hiệu tiếm ngụy của Ngô Tam Quế và giúp binh lương…Trước khi đánh Mạc, hãy đưa thư cho Lại Thập Lý, tướng quân nhà Thanh kể rõ tội trạng của Kính Vũ (theo Ngô Tam Quế)[26]
“Thần lo lắng giữ lòng trung, không dám theo giặc. Nhưng trong nước lại có tên nghịch thần là Mạc Nguyên Thanh bội ơn theo giặc, bí mật giao kết với Ngô Tam Quế, đưa một vạn binh mã ngầm vào Cao Bằng, âm mưu đánh úp” (103)
Các tư liệu vừa nêu chứng tỏ rằng nguồn tin bịa đặt nói trên được đưa ra từ Lê-Trịnh nhằm kích động nhà Thanh diệt Mạc Kính Vũ.
Thực tế như phần trên (1. Đi trước Lê-Trịnh trong việc thành lập ngoại giao với nhà Thanh) đã chứng minh, “ Mạc Kính Vũ, Mạc Nguyên Thanh không hề câu kết với Ngô Tam Quế, mà người câu kết với Ngô Tam quế lại chính là Lê-Trịnh” (62.CXG)
III.Góp phần xây dựng Cao Bằng
Nhà Mạc ở Cao Bằng vẫn kế tục tư tưởng và chính sách vốn có, ở hoàn cảnh mới, trong một thời gian dài là 91 năm (1592-1683)
Sau khi thất bại ở Thăng Long , vương triều Mạc rút lên Cao Bằng đã có nhiều chính sách để phát triển kinh tế xã hội nơi đây. Hiện nay chưa có điều kiện để phân biệt công lao của từng vì vua ở Cao Bằng, nhưng chắc rằng hoàng đế Mạc Kính Vũ có vai trò khá quan trọng.
Ơ Cao Bằng[27], nhà Mạc xây dựng vương triều ở khu đồng bằng Hoà An. Ơ đây họ xây dựng hai căn cứ chính. Kinh đô Nà Lử và vương phủ Cao Bình. Nà Lử là nơi hiểm yếu hơn, nơi vua ở. Vương phủ Cao Binh là nơi ở của hoàng hậu, công chúa, cung tần, gia đình các đại thần có vườn thượng Uyển, đền Giao (nơi tế lễ), Hồ Nhi (hồ trẻ con), Đào viên (vườn hoa). Các đồi được đặt tên là đồi Long, đồi Ly, đồi Quy,… có trường thi và đền thờ đức thánh Khổng tử ở Bản Thảnh.
Sơ qua như vậy đủ biết nhà Mạc chủ trương xây dựng một triều đình riêng, với tư thế đàng hoàng và nhắm hướng dài lâu. Các vua nhà Mạc luôn giữ vững truyền thống của tiên đế, thực hiện chính sách đối ngoại vừa bảo đảm chủ quyền quốc gia, “ không mời người Minh vào trong nước ta”, vừa tranh thủ sự ủng hộ của người nước ngoài. Vào cuối thế kỷ 17, tình hình Trung Quốc phức tạp. Lý Tự Thành nổi lên chiếm Bắc Kinh, nhà Minh lùi xuống phía Nam, gọi là Nam Minh, rồi nhà Thanh lên. Trong tình hình đó, nhà Mạc vẫn giữ vững chủ quyền mà điều hòa được mối quan hệ với Trung Quốc.
Ở Cao Bằng, nhà Mạc lại tiếp tục sự nghiệp đào tạo nhân tài, theo Tăng Bá Hoành, ở đây, nhà Mạc tổ chức thêm 12 kỳ thi[28], cộng cả ở Thăng Long là 34 kỳ,chú ý đào tạo cả người Tày như : tiến sỹ Bế Văn Phụng, (Tày, năm 1595), tiến sỹ Nông Quỳnh Văn (Tày, 1598). Đặc biệt có nữ tiến sỹ duy nhất trong chế độ phong kiến, bà Nguyễn Thị Duệ (Kinh),
Nhà Mạc chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa diện, theo nguyên tắc “trọng nông, trọng công, trọng nội ngoại thương” như chính sách của mình khi ở Thăng Long.
Cây lương thực không những phát triển ở vùng đồng bằng mà còn phát triển hầu hết ở vùng sâu xa, vùng cao, núi đá, vùng sình lầy ven sông. mở mang thuỷ lợi, làm mương máng và guồng nước, đắp nhiều phai lấy nước, nhân dân gọi là “phai vua”. Nhà Mạc đã cùng dân khai phá những cánh đồng lúa nước ở Hoà An, Trùng Khánh, Nguyên Bình , Quảng Hoà, Thạch An, Tràng Định, Văn Lãng. Sau khi thất bại, nhà Mạc còn để lại một diện tích đáng kể ở Cao Bằng là 1330 mẫu 14 thước[29]
Ơ Cao Bằng nhà Mạc vẫn tiếp tục khuyến khích sự phát triển sở hữu tư nhân về ruộng đất như khi ở Thăng Long: “Khuyến khích sự phát triển của sở hữu tư nhân về ruộng đất là chính sách khôn khéo của chúa Nguyễn ở phía Nam và nhà Mạc và con cháu nhà Mạc sau khi chạy lên Cao Bằng”[30]
Nghề gạch, ngói, gốm sứ, đất nung được phát triển,… Gạch vồ nhà Mạc được dân gọi là “gạch vua”. Nghề đúc đồng, đúc gang phát triển, lò rèn thủ công được mở ra khắp nơi.
Có những phát minh đối với thời bấy giờ là “kỹ thuật hiện đại”. như máy ép mía bằng sưc nước, máy nghiền gạo cũng bằng sức nước. Các máy này là kết quả du nhập kỹ thuật từ Trung Quốc sang. (Máy nghiền gạo còn mang tên Trung Quốc, “sủi ngàn” = “thuỷ nghiên”)
Về văn hoá, các vua Mạc, một mặt chuyển giao tinh hoa văn hoá miền xuôi bao gồm cả Nho giáo, Phật giáo cho nhân dân, mặt khác phát huy văn hoá các dân tộc ở điạ phương chủ yếu là VHDG. Sự nghiệp phát huy văn hoá dân tộc, dựa chủ yếu vào các nhà trí thức địa phương tiêu biểu là Tư thiên quản nhạc Bế Văn Phụng và Nông Quỳnh Văn.
Các ông đã sáng tác nên những tác phẩm VHDG nổi tiếng có thể đó là: Lượn Hồng nhan tứ quý, Giáo nam, giáo nữ,Lượn Bioc lạ-Lương Quân, Lượn Nam Kim-thị Đan,… Hai ông đã đưa đàn tính vào đệm cho hát then, sáng tác ra hai điệu Lưu thuỷ (tàng nậm) và Cao sơn (tàng bốc).
Nhà Mạc tổ chức nhiều hội hè cho dân vui chơi. Có thể trong số đó có lễ thượng điền, vua xuống đồng cầm cày xới đất làm mùa lúa đầu xuân. Sau lễ này phổ biến rộng thành lễ lồng tồng của người Tày vào sau Tết nguyên đán, do một lão nông địa phương cầm cày xới đất.
Các vua nhà Mạc cho giảm nhẹ sưu thuế, bớt hình phạt, xử nặng tội bọn tham quan nhũng nhiễu, khiến cho đất Cao Bằng, Lạng Sơn trở thành một địa bàn rộng lớn đầu tiên của khối đại đoàn kết dân tộc giữa người Kinh và các dân tộc thiểu sổ trong lịch sử nước ta (Mạc Đường).
Tiểu kết phần một
Hoàng đế Mạc Kính Vũ, trọn cuộc mình, với một ý chí sắt đá, một tài năng và trí thông minh sáng tạo tuyệt vời đã vượt qua muôn vàn gian nguy để thực hiện cho kỳ được mục tiêu chiến lược của các bậc tiên đế. Ngài đã kiên quyết chống phong kiến Lê-Trịnh thối nát và giành nhiều thắng lợi trong sự nghiệp này, tiêu biểu là đã từng đuổi “một vạn hùng binh” của Lê-Trịnh chạy dài đến bờ sông Thương .
Về ngoại giao, Ngài đã sáng suốt sớm nhận thức được vai trò lịch sử của nhà Thanh và không hề đi theo Ngô Tam Quế, như sự vu khống của Lê-Trịnh. Hơn nữa đã xây dựng được uy tín với triều đình Thanh, với các bậc lãnh đạo có quyền uy và kể cả thủ lĩnh các quận huyện.
Đặc biệt, Ngài đã thiết lập được mối quan hệ hữu nghị thân thiết với nhân dân Trung quốc mà biểu tượng văn hóa đẹp còn lưu lại đến ngày nay là tòa tam bảo Đại Phật Tự, Quảng Châu.
Phần hai
THỜI KỲ CUỐI ĐỜI CỦA HOÀNG ĐẾ MẠC KÍNH VŨ VÀ VÙNG ĐẤT VĨNH PHÚC
I. Một câu hỏi lớn về thời kỳ cuối đời của hoàng đế Mạc Kính Vũ.
Qua phần một chúng ta biết hoàng đề Mạc Kính Vũ là một người tài ba lỗi lạc cả quân sự, ngoại giao và chính trị; nói như người xưa, “văn võ kiêm toàn”. Thế nhưng, những năm cuối đời, sau khi thất thủ Cao Bình, đi Long Châu, tiếp theo Ngài hoạt động như thế nào, ở đâu, không có sử sách nào ghi chép?
Năm cuốn sử đều ghi, sau thất bại năm 1677, Mạc Kính Vũ đi Long Châu[31]:
+Tháng Tám mùa thu , bọn Đinh Văn Tả cả phá Nguyên Thanh (tức Mạc Kính Vũ) ở Cao Bằng. Nguyên Thanh chạy đi Long Châu (Trung Quốc), dư dảng đều tan vỡ. Bốn châu (Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang ) do đó được lấy lại và yên. (Lịch triều tạp kỷ)
+Đinh Tỵ, 1677, Mùa xuân, sai Đinh Văn Tả đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng. Kính Vũ trốn sang đất nhà Thanh. Địa phương Cao Bằng hết thảy đều bình định được.(Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
+Đến tháng 8 năm Đinh Tỵ, (1677) Đinh Văn Tả lấy được thành Cao Bằng, Mạc Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang Long Châu, bị quan nhà Thanh bắt giải sang trả cho An Nam. (Việt Nam sử lược)
+Trịnh Căn sai Đinh Văn Tả tiến quân đánh Cao Bằng. Mạc Kính Vũ lại đem hơn 300 người đảng phái và họ hàng chạy sang Long Châu nũa. (Việt sủ yếu).
+Tuần phủ Quảng Tây. Hắc Cốc, dâng sớ tâu: “Đô thống sứ An Nam, Mạc Nguyên Thanh, cùng em là Mạc Kính Quang, bị Trịnh Tộ nước An Nam đánh đuổi, chạy vào nội địa (Trung Quốc)” (Thanh thực lục)
Tóm lại, sau 1677, vua Mạc Kính Vũ còn sống, sang Long Châu. Nhưng sau đó Ngài đi đâu? Đây còn là một khoảng trống, cần tìm hiểu.
Có nhà khoa học cho rằng, qua tài liệu Trung Quốc thì sự kiện đột ngột biến mất của vua Mạc Kính Vũ đã xẩy ra từ năm 1661.
“Mạc Kính Diệu cùng con là Mạc Nguyên Thanh, vào tháng 5 năm 1661, trên đường đến kinh đô nhà Thanh, đã ghé thăm Quảng Châu, gặp gỡ Thượng Khả Hỉ. Nhưng từ đó trở đi, sử liệu nhà Thanh không còn nhắc đến hành trạng của ông nữa. Từ cuối năm 1661, liên quan đến nhà Mạc ở Cao Bằng, chỉ còn thấy sử liệu nhà Thanh nhắc đến hành trạng của Mạc Nguyên Thanh mà thôi. Có thể đặt hai giả thiết về việc này.”[32] Hai giả thiết đó của tác giả (Chu Xuân Giao) là:
-Ngài đã thực sự qua đời trước khi triều kiến.
-Ngài đã bí mật về Việt Nam
Lần tìm bước đi và công tích của vua Mạc Kính Vũ thời cuối đời là một nhiệm vụ rất khó khăn. Sau đây chúng tôi sẽ ứng dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp liên ngành bao gồm cả khảo sát di tích vật thể và phi vật thể, văn hóa bác học và văn hóa dân gian; bi ký , gia phả và lời truyền khẩu,….
Chúng tôi hướng sự tìm tòi về vùng đất Vĩnh Phúc, trọng tâm là nhũng nơi có mật độ cư trú cao hậu duệ của nhà Mạc và mật độ cao chùa chiền, lăng mộ họ Mạc.
II.Vùng đất Vĩnh Phúc cũ là một căn cứ của nhà Mạc, được quan tâm đến từ trước
1. Các di tích lăng mộ
1.1.Khu Mả Vàng ở Tiên Lữ, chùa Tiên Lữ (xóm Chùa) và hậu duệ ở Tiên Lữ (Lập Thạch)
Khu Mả Vàng ở Tiên Lữ Chùa Tiên Lữ (xóm Chùa)
Ảnh tượng Phật ở chùa Tiên Lữ
– Ba ngôi mộ tổ ở Diệm Xuân- Việt Xuân, chùa Xuân Sơn Tự và hậu duệ ở Việt Xuân (Vĩnh Tường).
Chùa Xuân Sơn Tự (Diệm Xuân), Vĩnh Tường
Đền thờ Bà Chúa Lối- (Thái Chiêu viên)
1.1.Ngôi mộ công chúa
Câu đối truyền lại:
Ái quốc trung quân tùng cúc thịnh
Vương triều công chúa Mạc Chính Lan
(Phần tiếp đây được viết theo báo cáo của ông Nguyễn Quang Thiết, chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm phó bí thư xã Việt Xuân vào thời gian phát lộ ngôi mộ tổ công chúa Mạc Chính Lan.)
Năm 1964 Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, ngày 6-1-1965 Ủy ban xã Việt Xuân được một đơn vị phòng không về yêu cầu cho cắm đất làm trận địa pháo, đặt liền khu vực chùa Xuân Sơn Tự, (chùa Trống). Khi đào đất làm ụ pháo, bộ đội và dân công phát hiện một ngôi mộ khác thường, trong quan ngoài quách. Thi hài là một phụ nữ, không có tóc, kiểu bà sư, cơ thể còn nguyên, ngâm trong một thứ nước màu hồng.
16h ngày 25-3-1965 huyện hẹn về làm việc với xã Việt Xuân.
Phía huyện Vĩnh Tường có các ông:
-Nguyễn Xuân Dự, chủ tịch
-Trần Văn Thản, mặt trận
-Nguyễn Đức Thịnh, công an
-Ngô Văn Lợi, chỉ huy trưởng công trường đê.
Phía xã Việt Xuân có các ông:
-Phạm Thành Trung, bí thư
-Nguyễn Quang Thiết, chủ tịch
-Trần Văn Chà, trưởng công an
-Tô Thị Uẩn, mặt trận
-Hà Văn Điệt, Văn phòng Ủy Ban.
Phía tỉnh Vĩnh Phúc có ông:
-Đinh Đức Thiện
Sau khi mọi người tham quan hiện trường, ông Dự, chủ tịch huyện phát biểu: “Đây là ngôi mộ cổ, kiểu kiến trúc từ xa xưa, có thể từ vài trăm năm về trước. Chức sắc ngôi mộ này không phải nhỏ, hài cốt ướp xác trong mộ có thể thuộc về các triều đại có danh sử quốc gia. Thay mặt huyện tôi cám ơn sự quan tâm của đơn vị và nhân dân địa phương đã bảo vệ chu đáo di tích này và yêu cầu phải di chuyển đi để đơn vị xây dựng gấp trận địa và nhờ địa phương đây bảo vệ mộ chu đáo; mai đây thuộc dòng tộc nào, sau khi sưu tầm khảo cổ thấy thật vô cùng quý giá; mộ ướp xác trong có quan, ngoài có quách”.
Ý kiến trên được hội nghị đồng tình.
Ngay tối đó (25-3-1965), ngôi mộ được di dời đến tha ma của chùa, cách chỗ cũ khoảng 100m, nay là đầu bếp nhà ông Quang.
1.2.Ngôi mộ “cây vú bò” phía sau chùa
-Trả lời phỏng vấn cụ Nguyễn Văn Mong. Cụ nói : Lúc bấy giờ chi nào cũng có người bị què, đi xem thì biết mộ tổ cây vú bò bị lệch. Các cụ xin tổ khai mộ ra. Mẹ anh Lộc đây được phục vụ nước nôi. Tôi là trẻ con tò mò ngó vào thấy quan tài treo trên xích sắt, cách mặt đất khoảng 2-3 gang tay, các thanh ngang dọc màu đen.
Từ khi quan tài được sửa lại ngay ngắn, không bị lệch thì con cháu hết người lệch.
1.3.Ngôi mộ “cây chòi mòi”
Chỉ biết các cụ truyền lại đây là một trong ba mộ tổ. Chúng tôi đã dùng phương pháp trứng đũa để xác minh. Xin xem ảnh, quả trứng đã đứng mấy tiếng đồng hồ. Người đặt trứng là anh Phạm Mạc Kim Tuấn, quê Nam Định, hậu duệ trực tiếp cụ Mạc Thạch, kế cận cụ Nguyễn Mạc Hữu Pháp.
1.4.Ngôi mộ và đền thờ thứ hậu của thái tổ Mạc Đăng Dung, Thái chiêu viên Nguyễn Thị Ngọc Lãng.(Ảnh số 9 và số 10)
Đền thờ bà ở thôn Cây Phấn, xã Xuân Lôi, thường gọi là Đền Bà Chúa Lối. Theo ông Nguyễn Thiệu Thăng, nhân dân lấy tên của Xuân Lôi, làng Lối , để đặt tên cho đền. Theo bản ghi lại văn bia tại mộ , Bà sinh ngày 10 tháng Tám Âm, năm 1507, mất ngày 4 tháng Tư Âm, năm 1537 (niên hiệu Đại Chính thứ 8, đời vua Mạc Đăng Doanh), tại thế 30 năm.
Bà xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc, ông nội làm thương thư, “bẩm sinh thiên tính, dáng vẻ đoan trang, tính tình hiền hậu….”, lâm bệnh ngày 22-2 Âm (1537), vâng mệnh về bản quán chữa bệnh ngày 21-3 cùng năm. Bà được phong Thái Chiêu Viên và được cấp 270 mẫu ruộng. Khi Bà qua đời, triều đình cử ba vị đại thần về quê trông coi việc tang lễ.
Bà được an táng ở cánh đồng “lò hấp”, mộ phần theo “Đoài sư chấn hương”.
Ngày nay Bà đã hiển thánh-Thánh Mẫu, chính kỵ ngày 4 tháng Tư Âm lịch hàng năm.
1.5.Khu Mả Vàng (Ảnh số 4)
1.6.Ngôi mộ đệ tam phi của vua Mạc Mậu Hợp và hậu duệ ở xã Tiền Phong (Mê Linh)
(Theo báo cáo của ông Hoàng Thế Hiền, trưởng tộc họ Mạc ở Yên Nhân, xã Tiền Phong, Mê Linh)
Hoàng đế Mạc Mậu Hợp là vị vua thứ 5 của vương triều Mạc. Năm 17 tuổi Ngài kết hôn với bà Vũ thị Hoành, con gái của cẩn y thị vệ Vũ Văn Khuê. Sau đó Ngài kết hôn với bà Nguyễn Thị, con gái của tướng Nguyễn Quyện, lập làm hoàng hậu. Đệ tam phi của Ngài, Lương Thi Nha Nỹ là cụ tổ mẫu của dòng họ Hoàng Thế , sinh hạ được 3 người con trai. Cụ đã cùng người con cả về vùng Mê Linh, Vĩnh Phúc (nay thuộc Hà Nội), đổi sang họ Hoàng Thế. Cụ mất ngày 22-1 Âm lịch, được an táng tại nghĩa trang làng Nhuế Khúc, phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên.
2. Chùa cổ
-Xuân Sơn Tự (xem ảnh 5)
-Chùa Tiên Lữ (xem ảnh 1,2,3.)
3. Các di tích khác trên đất Vĩnh Phúc
TT |
Loại |
Tên gọi |
Thời gian |
Địa điểm |
Ghi chú |
1 |
Cầu |
|
QuảngHòa III, đời vua Mạc Phúc Hải(1543) |
Hương Sơn, h.Phù Ninh, t. Phúc Thọ (Vĩnh Phúc) |
|
2 |
Cầu |
Đạm Giang |
Sùng Khang IX, đời vua Mạc Mậu Hợp(1576) |
Xã Đạm Nội, h. Yên Lãng, t. Phúc Yên (Vĩnh Phúc) |
|
3 |
Chùa |
Phượng Tường |
Đoan Thái II, đời vua Mạc Mậu Hợp(1586) |
Xã Kiên Cương, h.Vĩnh Tường, t.Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) |
|
4 |
Bia |
Phượng Tường |
Đoan Thái II, đời vua Mạc Mậu Hợp(1586) |
Xã Kiên Cương, h.Vĩnh Tường, t.Vĩnh Yên, (Vĩnh Phúc) |
|
5 |
Chùa |
Bảo Quang |
Đoan Thái II, đời vua Mạc Mậu Hợp (1586) |
Xã Thượng Trưng, h. Vĩnh Tường, t.Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) |
|
6
7 8 |
Chùa
Cầu Đìnhchợ |
Đại Đồng và Linh Am
|
Hưng Trị III, đời vua Mạc Mậu Hợp (1590) -nt- -nt- |
Xã Cẩm Viên, h.Yên Lạc, t.Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc)
-nt- -nt- |
|
9 |
Bia |
Bảo Quang |
Hưng Trị IV, đời vua Mạc Mậu Hợp (1591) |
Xã Thượng Trưng, h. Vĩnh Tường, t. Vĩnh Phúc. |
|
10 |
Bia |
Đại Đồng |
Hưng Trị I, đời vua Mạc Mậu Hợp (1588) |
Xã Cẩm Viên, h.Yên Lạc, t.Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) |
|
Tổng cộng: 10 di tích (bao gồm: chùa ,cầu, bia, đình chợ)
Văn bia cầu Đạm Giang
“Cầu bắt đầu khởi công từ tháng trọng đông năm Ất Hợi, đến tháng quý đông thì hoàn tất. Muôn cảnh đều mới, vẻ đẹp hiện ra. Nhờ đó mà ngựa xe qua lại, hàng hóa lưu thông. Thợ thuyền tinh thông tay nghề, nhà nông sống được bằng nghề của mình. Người chài lưới, qua đây đánh cá, người hái củi, qua nhờ cầu này mà kiếm sống được, kẻ chăn trâu có chỗ tạm nghỉ ngơi.
Công đức giúp cho dân yên, vật lợi ấy chẳng lớn lao sao? Do vậy mọi người đều mở hội tụ họp tuyên dương công đức và dựng bia để lưu truyền mãi mãi. Khiến cho dân chúng đời này thẩy đều được vui với cái vui ấy, lợi với cái lợi ấy. Công đức ấy thật lớn lao và từ bi vậy. Mai sau ai bước chân lên cây cầu này , nhìn tấm bia này hẳn đều cảm kích lòng thiện mà làm điều thiện vậy….” (Bia cầu Đạm Giang, xã Đạm Nội, tổng Đạm Xuyên, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc)[33]
4.Hậu duệ nhà Mạc trên đất Vĩnh Phúc
4.1.Gia phả họ Lê-Mạc
Câu đối:
–Tích yên Mạc phái, thiên niên tưởng
Kim dã Lê môn, vạn cổ tồn (Gia phả)
-Mạc tông tổ khảo, húy Công Sinh vạn tuế
Lê môn huynh đệ,Tú, Vạn/Vận, Phúc thiên niên
(Treo tại nhà ông Lê Văn Cung, thôn Vũ Di)
“Ngã tiên tổ tính Mạc hệ, xuất Sơn Nam trấn, Ứng Hòa phủ, Chương Đức huyện, An Nhân xã, tích bị binh biến, dân bất an cư, huynh đệ tự tương cáo ngữ, cải Mạc vi Lê.(Tổ tiên chúng tôi thuộc dòng họ Mạc, vốn từ trấn Sơn Nam, phủ Ứng Hòa, huyện Chương Đức, xã An Nhân, xưa bị binh biến , ở không yên ổn, anh em bảo nhau , đổi Mạc thành Lê).
Lê Tiến Tú, Lê Vận , lưu cư An Lạc huyện; Lê Vạn Phúc lưu cư Bạch Hạc huyện…..
Thành Thái nhị niên (1891), tuế Canh Dần, nhị nguyệt, cốc nhật, Lê phả tự”
Sách Hợp biên thế phả họ Mạc viết: “Vào năm hoàng đế Mạc Mậu Hợp thất thế, cụ Mạc Công Bình (con vua Mạc Mậu Hợp) dẫn 3 người con trai là: Mạc Tuấn Tú, Mạc Đăng Vạn, Mạc Đăng Phúc về Vĩnh Tường , Yên Lạc (thuộc phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây để lánh nạn và lập nghiệp.” (do Lê Minh Thường cung cấp tư liệu)
4.2. Gia phả họ Ngô-Mạc
Gia phả họ Ngô-Mạc ở Hoa Phú, Bình Dương, Vĩnh Tường ghi: “Vua Mạc Mậu Hợp sinh 18 con trai đều bị tiêu diệt. Chỉ còn lại 3 con là: Thao, Phố, Thanh. Con lớn là Thao theo cha vào tỉnh Cao Bình ở ẩn, rồi cha chết. Thao đổi tên thay họ là Vạn, con thứ 6 là Thanh trốn vào tỉnh Thanh Hóa thoát nạn rồi thay tên đổi họ. Đây là hai chi phái đầu tiên, sau không biết nguồn ngạch ra sao nữa.
Duy chỉ có chi ta, con thứ ba là Phổ, di duệ buổi gặp thời đến phủ Tam Đái, xứ Sơn Tây (sau này là phủ Vĩnh Tường). Con cháu chi cụ Phổ đến thôn Hương Phú xã Lương Điền, tổng Lương Điền, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường , xứ Sơn Tây ở ẩn; đổi tên là Tự Tăng, cải họ là họ Ngô, có 3 chi. Dù cải Vạn hoặc cải Liễu, hoặc cải Ngô, vẫn từ cụ tổ họ Mạc, cụ Trạng mà ra vậy. Thoắt ba bốn năm đầu nhận vào làng Y Thôn. Tương truyền được 5 đời có người trong họ xưng là Chi Vượng Ngô Trọng Lâm.
Cụ Ngô Trọng Lâm đỗ cử nhân thời Hậu Lê, có tài, nhưng it được trọng dụng, ông đào tạo được 200 học trò. Sau Y Thôn lập đền thờ tự.”
(Ô. Ngô Hữu Mai, Văn phòng UBND tỉnh Vĩnh Phúc cung cấp tư liệu)
Qua đoạn gia phả trên, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét:
1.Họ Ngô hiện nay ở Bình Dương (Vĩnh Tường) vốn gốc họ Mạc, hậu duệ trực tiếp của hoàng đế Mạc Mậu Hợp
3. Gia phả cung cấp một thông tin khác về việc qua đời của vua Mạc Mậu Hợp là Ngài từ trần trong vòng tay của gia đình ở Cao Bình. Trong lúc đó sử sách nhà Lê ghi rằng, Ngài bị hành hình dã man ở Bồ Đề.
Hiện nay chưa thể khẳng định đúng sai, thực hư. Phải mất nhiều công phu khảo cứu mới tìm ra chân lý, Tuy nhiên đường đến đó có lẽ còn xa. Vậy xin cung cấp thêm tư liệu, gia phả họ Ngô-Mạc, chỉ nhằm hé ra một khe sáng mới giúp người sau tiếp tục.
4.3. Các chi họ Mạc ở Vĩnh Phúc
4.3.1.Bảng ghi các chi họ gốc Mạc từ sách Hợp biên thế phả
TT |
Chi họ và phân chi |
Danh tính tổ phụ |
Nơi cư trú |
Ghi chú |
1. |
Họ Chữ |
|
Thôn Đông Cà, xã Bù Lý/Bồ Lý, Tam Đảo. |
Chưa rõ địa địa danh |
2.
3
4 5
6 |
Họ Nguyễn
Họ Nguyễn Hữu -Họ Nguyễn -Họ Nguyễn
-Họ Nguyễn |
Cụ Nguyễn Hữu Pháp |
Thôn Diệm Xuân, xã Việt Xuân,Vĩnh Tường Xóm Chùa, xã Tiên Lữ, Lập Thạch
-Xã Văn Quán, Lập Thạch -Xã Vạn Xuân/Vân Xuân, Vĩnh Tường
-Thôn Đồng Mật, xã Sơn Đông, Lập Thạch |
Hiện có 3 ngôi mộ tổ Hiện có 37 ngôi ở khu mộ tổ
-Chưa rõ địa danh
|
7
8
9 |
Họ Nguyễn
Họ Nguyễn Đăng Họ Ngô |
Cụ Mạc Đăng Cao
Cụ Ngô Tự Tăng |
Thôn Phù Lập, Vĩnh Tường
Thôn Yên Xuân, xã Phú Thịnh, Vĩnh Tường Thôn Hoa Phú, xã Bình Dương, Vĩnh Tường |
-Chưa rõ địa danh -Chưa rõ địa danh -Hậu duệ vua Mạc Mậu Hop |
10 |
Họ Hoàng |
|
Thọ Lão, h.Yên Lãng/Mê Linh |
Chưa rõ địa danh |
11 |
Họ Hoàng |
Vua Mạc Mậu Hợp và bà đệ tam Lương T.Nha Nỹ |
Thôn Yên Nhân,Tiền Phong,Mê Linh |
Hiện có mộ Bà Tổ Mẫu họ Lương |
12
13
14
15 |
Họ Lê
Họ Lê
Họ Lê
Họ Lê |
Cụ Mạc Công Sinh -Cụ Mạc Tuấn Tú -Cụ Mạc Đăng Vạn -Cụ Mạc Đăng Phúc |
-Thôn Đồng Màu/Đông Mẫu ,xã Yên Đồng, Yên Lạc -Thôn Lâm Xuyên, xã Tam Hồng, Yên Lạc -Thôn Vũ Di, xã Vũ Xuân/Vũ Di , Vĩnh Tường
|
Con vua Mạc Mậu Hợp |
Tổng cộng: 15 chi và phân chi
Nhận xét:
Qua Bảng ghi các chi họ gốc Mạc ở VĩnhPhúc trên đây , có thể rút ra mấy nhận xét:
1. Các chi họ hiện nay cư trú tập trung ở huyện Vĩnh Tường, kế đến huyện Lập Thạch. Cụ thể là: Vĩnh Tường, 6; Lập Thạch,5; Yên Lạc, 3; Mê Linh, 2.
Các chi đều cư trú dọc Sông Lô và Sông Hồng (trừ chi họ Chữ). Đặc biệt gần sát sông và gần ngã ba Bạch Hạc là chi họ Nguyễn –Diệm Xuân, nơi có 3 ngôi mộ tổ, tương truyền có mộ vua Mạc Kính Vũ.
Lưu ý: Từ Việt Xuân nếu nối một đường đến Tiên Lữ thì chúng ta thấy các nơi có hậu duệ họ Mạc, cùng là con cháu của hoàng tử Mạc Nguyễn Hữu Pháp, làm thành 5 điểm nằm trên một đường thẳng (Việt Xuân, Sơn Đông, Văn Quán, Tiên Lữ, Xuân Lôi) mà mỗi điểm cách nhau trung bình 3km. Phải chăng đó là một đường dây liên lạc thuận lợi từ Việt Xuân đến Tiên Lữ, Xuân Lôi khi có biến động.
Cũng tương tự như vậy, các hậu duệ của cụ Mạc Công Sinh (họ Lê-Mạc) không dồn vào một nơi mà phân ra 3 điểm (Yên Đồng, Vũ Di, Tam Hồng). Nếu lấy cơ sở của cụ Cả, Mạc Tuấn Tú làm trung tâm (Yên Đồng), thì mỗi nơi cách nhau khoảng 3km.
2.Hoàng đế Mạc Mậu Hợp có dấu ấn đậm ở Vĩnh Phúc. Trong số các chi họ thì 3 chi (Lê, Ngô, Hoàng) được ghi trong gia phả là di duệ trực tiếp của hoàng đế Mạc Mậu Hợp. Ở Mê Linh (vốn thuộc Vĩnh Phúc) lại có mộ của thứ phi đệ tam của vua Mạc Mậu Hợp. Liệu lăng mộ của hoàng đế Mạc Mậu Hợp có ở Vĩnh Phúc không? Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu , tìm hiểu.
4.3.2. Các chi , cành họ gốc Mạc do cụ Nguyễn Quý Đôn thông báo.
Cụ Đôn cho biết có 15 cành, thuộc hai chi họ gốc Mạc ở làm hai địa bàn:
-Bãi sông Cà Lồ do Thái phó Đà Quận công Mạc Ngoc Liễn tổ chức đến cư trú.
-Vùng Định Xá, Vĩnh Tường, bà con tự đến.
Cụ đã tiếp cận với hai bản gia phả họ Mac (ở Đạm Xuyên và Thu Quế)
Tiểu kết mục II
1.Nhà Mạc thời kỳ còn là vương triều ở Thăng Long-Đông Đô đã đóng góp xây dựng Vĩnh Phúc (ngày nay) về mọi mặt kinh tế- xã hội, văn hóa-giáo dục như các điạ phương khác, mà nay các di tích còn ghi lại trên bia là: cầu đường, chùa am, chợ,…
2.Tình hình của hậu duệ vương triều Mạc ở Vĩnh Phúc thể hiện đúng lịch sử biến động của họ Mạc:
-Các chi họ Lê, Ngô, Hoàng là hậu duệ của hoàng đế Mạc Mậu Hợp thay tên. đổi họ, mai danh ẩn tích, từ sau khi thất thủ Thăng Long, 1592, về ẩn cư ở đất Vĩnh Phúc ngày nay. (Ngoài số 30 chi và phân chi/ cành, nhiều chi chưa được tập hợp và ghi chép)
-Chi họ Nguyễn với 4 phân chi, ẩn cư ở Lập Thạch và Việt Xuân, Vĩnh Tường, có thể di cư từ Cao Bằng về.
-Các chi họ Lê, Ngô, Đỗ , Nguyễn Đăng, Trần, Hoàng, Chữ,… về đây từ nhiều hướng và trong rất nhiều hoàn canh lịch sử khác nhau, nhưng đều một lòng tha thiết , bền bỉ, tìm về tổ tông.
-Các chi họ gốc Mạc về Vĩnh Phúc, đã phát huy được truyền thống học hành, đỗ đạt, tích cực đóng góp cho quê hương mới.
3.Hơn nữa, ở Vĩnh Phúc có một đặc điểm là tồn tại một căn cứ của triều Mạc mà di tích còn lại là:
– Hai ngôi chùa do thủ lĩnh họ Mạc trùng tu, xây dựng và tu hành tại đấy, để kín đáo mưu đồ sự nghiệp.
-Hai khu lăng mộ (Tiên Lữ và Việt Xuân), trong đó có hai ngôi mộ đã mai táng theo cung cách đặc biệt, táng treo và trong quan ngoài quách.
-Hai ngôi mộ và một đền thờ của thứ hậu Thái tổ Mạc Đăng Dung và hoàng đế Mạc Mậu Hợp.
-Theo truyền ngôn, ở Tiên Lữ, họ Nguyễn Mạc đã chuyển về đây nhiều di sản quý, vàng bạc, châu báu, đồ thờ, ấn tín, sắc phong,…
-Theo niềm tin của dòng họ, họ Nguyễn Mạc ở Tiên Lữ-Việt Xuân “là con cháu của Mạc Kính Vũ”
-Đúng như lời tục ngữ của dòng họ “Không làm vua thì làm chùa, khỏi đóng góp”;vùng Tiên Lữ, Việt Xuân, kể chưa đầy đủ đã có 6 ngôi chùa do con cháu họ Mạc hện trông coi.
III.Niềm tin của con cháu đã tiếp nối dòng lịch sử
- 1. Lời dặn lại của cha ông
1.1.Chúng tôi về Xóm Chùa, xã Tiên Lữ, quê hương của họ Nguyễn gốc Mạc.Các cụ cao tuổi họ Nguyễn –Mạc tin rằng họ là con cháu Mạc Kính Vũ, nhưng không biết Mạc Kính Vũ là ai, làm gì. Một số người biết cụ tổ ở Cao Bằng về.
1.2.Phỏng vấn cụ Nguyễn Mạc Văn Thập, 73 tuổi: “Ông cha mình gốc Mạc ở Cổ Trai, sau thất thế cụ Mạc Kính Vũ theo dòng sông về ở đây, làm nghề đánh cá. Gia phả mới mất hơn 10 năm nay. Năm 1983, còn một nồi ba mươi vàng, ấn, y môn thêu vàng. Đời tôi đã thấy ở nhà trưởng, bắt đầu giao thừa là treo y môn, sau cất. Y môn có thể bằng vàng, kim loại, rồng tranh chầu, hai con rồng nổi, to như cái vại, sắc phong hai cái, một cái dài bằng chiếc chiếu, môt cái ngắn hơn. Bát đĩa cổ rất nhiều, đủ 50 mâm, đũa mun nhiều, một vại, màu đen như sừng, đầu bọc ngà, màu trắng, bây giờ không còn gì. Bà anh Hạnh nói về đến đây còn một nồi 30 vàng
Cụ Mạc Kính Vũ có lên đồi Bãi Hội luyện binh nhưng sau không thành. Chắc là chết bên chùa Trống, chỉ biết sau chùa. Ba mộ tổ, một tổ cành Diệm Xuân ở cây chòi mòi. Cây vú bò là mộ tổ chính, táng treo. Mộ tổ cành là táng treo. Không rõ tên. Tổ chính là cụ Mạc Kính Vũ.
Cụ ông cụ bà trước truyền lại. Chú ba tên là Nguyễn Quang Thúy. Ông Thúy nói cụ tổ ở Cổ Trai, Hải Dương, sau lên Cao Bằng, thua về Bạch Hạc. Hiện chú Năm còn đi chơi ở Đắc Lắc.
Các cụ truyền lại câu “Không làm vua thì làm chùa , khỏi đóng góp” Họ này trông coi rất nhiều chùa: chùa xã Hoàng Trung, ông cụ Nguyễn Văn Cày trông coi; Chùa Kim Bảng, cụ Nguyễn Văn Bờ, chùa Lai Châu Văn Quán, Nguyễn Văn Quých, chúa Diệm Xuân cũng do họ Nguyễn –Mạc trông coi, Chùa Sơn Đông cũng vậy. »
1.3.Phỏng vấn cụ Nguyễn Quang Thiều
« Thôn Sa Sơn, Văn Quán, Lập Thạch, sinh 1935, họ gốc Mạc Tôi thuộc chi thứ 2 của Cụ tổ là cụ Mạc Kính Vũ nghe nói là táng treo …. Ông nội kể mộ tổ ở Diệm Xuân. Mộ tổ gần hơn là cụ Nguyễn Hữu Pháp an táng tại Mả Vàng »
1.4. Phỏng vấn cụ du kích Đặng Văn Thinh, 93 tuổi.
Năm đó, khoảng chúng tôi là du kích, gồm 3 người mang súng đi tuần, giao thừa đi qua chùa, biết có người, nhẹ nhàng vào, thấy các cụ đang treo y môn vàng, trải ra hai đạo sắc, một đạo bằng chiếc chiếu, một đạo nhỏ hơn; còn có ấn nữa.
1.5.Ngoài các cụ trên, chúng tôi làm bản hỏi bằng giấy, các vị sau đây, đã trả lời với nội dung cũng như phỏng vấn miệng trên:
Nguyễn Khánh Ka Nguyễn Khánh Thịnh Nguyễn Khắc Thông Nguyễn Thiệu Vượng Nguyễn Hữu Hạnh |
Nguyễn Hồng Định Nguyễn Văn Khiêm Nguyễn Hữu Quang Nguyễn Văn Khang Nguyễn Văn Hiển |
Nguyễn Văn Chất Nguyễn Khắc Toàn Nguyễn Đức Trà Nguyễn Văn Minh
|
2.Giải đáp ban đầu về những ngày cuối cùng của hoàng đế Mạc Kính Vũ.
Ở đoạn trên một số nhà khoa học đã nêu vấn đề: sau khi thất thủ Cao Bình (1677), các tài liệu lịch sử đều viết Ngài còn sống, đi Long Châu, sau đó không biết đi đâu (Thái Kế Toại). Hoặc là sớm hơn thế , năm 1661, ở Trung Quốc, sau cuộc gặp gỡ Thượng Khả Hỷ, Ngài đột ngột không xuất hiện (Chu Xuân Giao).
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã về Vĩnh Phúc.
+ Về vị trí địa lý, đây là vùng trung chuyển giữa miền núi và miền xuôi, có đường giao thông thuận lợi là mấy con sông lớn mà nơi gặp gỡ là ngã ba Bạch Hạc.
+ Từ thế kỷ XVI, khi nhà Mạc còn định đô ở Thăng Long, Vĩnh Phúc đã là hậu phương, khu căn cứ, mà di tích còn lại là khá nhiều bia tượng, đền chùa , lăng miếu của hoàng thân. Đến thời kỳ Cao Bằng , các di tích trên được tăng cường, cho đến nay chúng ta thấy chùa đền (3 ngôi) mộ tổ ( ở 4 xã: Diệm Xuân, Tiên Lữ, Xuân Lôi, Tiền Phong), bia cổ 15 chiếc,…Hiện đã ghi được 15 chi họ gốc Mạc, cư trú tập trung ở Vĩnh Tường và Lập Thạch.
+ Hậu duệ của nhà Mạc ở Tiên Lữ ( nơi có khu Mả Vàng, mai táng cụ tổ Nguyễn Mạc Hữu Pháp) để lại nhiều di sản quý (vàng , sắc phong, ấn tín), của một dòng họ vương thân quốc thích, ngôi mộ công chúa trong quan ngoài quách cũng có thể coi là di sản của một vương tộc.
+ Lời truyền lại của của tổ tiên họ Mạc, ngày nay đã trở thành niềm tin của các thế hệ “chúng tôi là con cháu Mạc Kính Vũ”.
Xét 4 sự kiện trên đây trong một tổng thể, để có một lời giải đáp ban đầu, chúng tôi đồng ý với các nhà khoa học với các lập luận sau đây:
+ “Còn vua Mạc Kính Vũ thì rút khỏi thành Phục Hòa và rút khỏi Cao Bằng, theo sông Lô, về vùng Bạch Hạc, ngã ba sông và mai danh ẩn tích, tại vùng này”[34]
+ “Vì vậy, có thể suy đoán rằng, phải chăng Mạc Kính Diệu/Vũ có kế hoạch riêng nào đó, đã bí mật trở về Việt Nam khi đã biết chính thức được nhà Thanh sẽ phong cho mình làm Qui hóa tướng quân, toàn bộ công việc thì giao cho con là Mạc Nguyên Thanh cũng sẽ được nhà Thanh chính thức phong làm An Nam đô thống sứ. Phải chăng Mạc Kính Diệu/Vũ vẫn duy trì phương thức chính trị của triều Mạc trước đây: vua hiện tại rút về làm thái thượng hoàng, còn người kế nghiệp thì lên ngôi. Nếu giả thiết này đúng, thì có thể lí giải được những truyền ngôn của con cháu nhà Mạc bấy lâu nay về việc một vua Mạc nào đó đã từ Cao Bằng bí mật trở về vùng đồng bằng vào khoảng đầu thập niên 1660.”[35]
+“Như vậy là cũng như Mạc Kính Diệu/Vũ vào năm 1661, đến lượt Mạc Nguyên Thanh vào năm 1680, các vua Mạc đều để lại những bí mật xung quanh cái chết của mình. Không rõ hai vị đã mất trong hoàn cảnh cụ thể như thế nào, ở đâu, mộ phần ra sao. Rất tiếc là người cháu Mạc Kính Thự cũng không thể tiết lộ về những bí mật đó.
Trong truyền ngôn của một số con cháu Mạc tộc Việt Nam thì, Mạc Nguyên Thanh (tức Mạc Kính Vũ) vào một năm nào đó không rõ đã rút khỏi Cao Bằng bằng đường thủy, theo sông Lô về vùng Bạch Hạc ngã ba sông, rồi mai danh ẩn tích chờ thời tại vùng này. Ông đóng giả làm sư, vào tu ở chùa Xuân Sơn (tên nôm là chùa Trống) hiện thuộc vào thôn Diệm Xuân, xã Việt Xuân huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Tương truyền sau khi mất, ông được mai táng ở khu vực vườn sau chùa, nay vẫn còn [Nguyễn Minh Đức 2007: 581-583; Hoàng Lê – Nguyễn Minh Đức 2010: 375-379; Nguyễn Thị Hải 2010: 106].”[36]
Tập hợp nhiều ý kiến thuộc nhiều góc độ, với phương pháp nghiên cứu tổng hợp liên ngành, chúng tôi có thể đề xuất giải đáp ban đầu rằng: sau khi đột ngột không xuất hiện, hoàng đế Mạc Kính Vũ đã bí mật về Vĩnh Phúc để tập hợp lực lượng, mưu tiếp tục sự nghiệp và viên tịch tại đây. Mong các vị tiếp tục sưu tầm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong tình hình tư liệu hiện nay, nhận định trên là gần với sự thực nhất.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Nhà Mạc trải qua ba thời kỳ lịch sử, nếu kể cả thời kỳ hậu Cao Bằng , đã kéo dài 242 năm. Dầu đóng đô ở Thăng Long-Đông Đô, ở Cao Bằng hay hậu Cao Bằng thì nhà Mạc vẫn kiên trì chiến đấu thực hiện mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội tương đối tiến bộ so với xã hội phong kiến đương thời.
2. Sau khi thất thủ Thăng Long, hậu duệ nhà Mạc đã ẩn cư, nương nhờ các địa phương Vĩnh Phúc ngày nay, đã được nhân dân bảo vệ, giúp đỡ; và mặt khác họ Mạc đã tích cực đóng góp xây dựng quê hương.
3. Đến thời kỳ hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, con cháu họ Mạc đã phát huy truyền thống, tích cực góp phần phấn đấu xây dựng Vĩnh Phúc giàu mạnh.
Đề xuất
1.Sau hội thảo, Hội đồng Mạc tộc cần phối hợp với tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục sưu tầm nghiên cứu về họ Mạc và nhà Mạc trên vùng đất Vĩnh Phúc.
2.Phối hợp trùng tu xây dựng khu di tích Xuân Sơn Tự, liên kết với khu Tiên Lữ. đền thờ Bà Thái Chiêu viên Nguyễn Thị Ngọc Lãng, thành một “tour” du lịch văn hóa -tín ngưỡng gồm đình, chùa, đền, điện mẫu, lăng tẩm,.. của tỉnh.
3. Các chi họ Mạc cần chắp nối nhận họ và “phục hồi” tên họ./.
P.Đ. N.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
————————–
-Ban Liên lạc họ Mạc: Hợp biên thế phả họ Mạc, NXB Văn hóa dân tộc, H, 2007.
–Đại Nam thực lục, tập I, tiền biên,NXB Sử học, H, 1962.
-Đại Việt sử ký toàn thư (Viện khoa học xã hội), tập III, NXB Khoa học xã hội, H. 1998.
-Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, NXB Trẻ-NXB Hồng Bàng, H, 2012.
-Mạc Đường: Góp phần đổi mới quan điểm đánh giá vương triều Mac, NXB Trẻ, S, 2005.
-Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùngcủa nhà Mạc. Báo cáo hội thảo “ Nhà Mạc và hậu duệ ở vĩnh Phúc” quý III, năm 2012.
-Chu Xuân Giao: Đi tìm dấu ấn cha con Mạc Kính Diệu ở Quảng Châu. Báo cáo hội thảo “Nhà Mạc và hậu duệ ởVĩnh Phúc” quý III, năm 2012.
-Khâm định Việt sử thông giám cương mục,tập 2, H, NXB Giáo dục.
-Ngưu Quân Khải: Bước đầu nghiên cứu nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng, hội thảo “Nhà Mạc và hậu duệ ở Vĩnh Phúc”
-Đỗ Đức Hùng: Một vài nét về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp dươi thời Mạc, trong sách Hội đồng lịch sử Hải Phòng: Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, H, 1996.
-Tăng Bá Hoành: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:nhà văn hóa lớn thế kỷ 16, Tạp chí xưa và nay, số tháng 8 năm 2011.
-TS Hoàng Lê-TS Nguyễn Minh Đức: Việc mai danh ẩn tíc h của vương triều Mạc và hậu duệ., trong sách Kỷ yếu hội thảo khoa học vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, Hà Nội 9-2010, tr. 378.
– Nguyễn Thiện Tứ :Tìm hiểu nhà Mạc ở Cao Bằng, bản thảo, chưa xuất bản. Nhân đây xin cám ơn tác giả.
– Nguyễn Minh Tường: Nhà Mạc sau năm 1592, trong sách “Vương triều Mạc”, NXB Khoa học xã hội, H, 1996, tr.296.
-Thái Kế Toại: Một giả thiết về Mạc Kính Vũ…Báo cáo tại hội thảo khoa học “Nhà Mạc và hậu duệ ở Vĩnh Phúc”.
-Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc, NXB Hải Phòng, 2010.
[1] Đại Việt sử ký toàn thư (Viện khoa học xã hội), tập III, NXB Khoa học xã hội, H. 1998, tr.236.
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, tr.339.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), sách đã dẫn. tr.339.
[4] Ngưu Quân Khải: Bước đầu nghiên cứu nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng, hội thảo “Hoàng đề Mạc Kính Vũ và hậu duệ ở Vĩnh Phúc”
[5] Đại Việt sử ký toàn thư (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), sách đã dẫn, tr.273.
[6] Chu Xuân Giao: Ba đời vua Mạc cuối cùng…., Tài liệu đã dẫn, tr.21.
[7] Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, NXB Trẻ-NXB Hồng Bàng, H, 2012, tr.277.
[8] Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Tài liệu vừa dẫn, tr.278.
[9] Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, Tài liệu vừa dẫn, tr.278.
[10] Lê quý Đôn: Đại Việt thông sử, Tài liệu vừa dẫn, tr.287.
[11] Tiếp dẫn của Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng,…,Tài liệu đã dẫn, tr.23.
[12] Đại Nam thực lục, tập I, tiền biên,NXB Sử học, 1962, tr.90-91.
[13] Lý do đơn phương thay đổi mật ước cũng coi như bội ước vì “không đánh người có tang” , có vẻ yếu ớt, ngoài ra còn có lý do sâu xa hơn . Xin tạm gác lại, chưa bàn đến vấn đề này.
[14] Ban Liên lạc họ Mạc: Hợp biên thế phả họ Mạc, NXB Văn hóa dân tộc, H, tr.128.
[15] Ngưu quân Khải: Bước đầu nghiên cứu về nhà Mạc ở Cao Bằng và hậu Cao Bằng, Báo cáo “Hội thảo khoa học nhà Mạc và hậu duệ ở vùng đất Vĩnh Phúc”, tr. 12.
[16] Nguyễn Minh Tường: Nhà Mạc sau năm 1592, trong sách “Vương triều Mạc”, NXB Khoa học xã hội, H, 1996, tr.296.
[17] Tiếp dẫn theo Chu xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng,…Tài liệu đã dẫn, tr. 28.
[18] Tiếp dẫn theo Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng…Tài liệu đã dẫn, tr. 30.
[19] Tiếp dẫn theo Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng…Tài liệu đã dẫn, tr. 31
[20] Tiếp dẫn theo Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng….Tài liệu vừa dẫn, tr.34,
[21] Tiếp dẫn theoChu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng,,,,, Tài liệu vừa dẫn, tr.28.
[22]Tiếp dẫn theo Chu Xuân Giao: Ba đời vua Mạc cuối cùng…, Tài liệu vừa dẫn, tr.32.
[23] Chu Xuân Giao: Ba đời vua Mạc cuối cùng…, Tài liệu vừa dẫn, tr.42.
[24] Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng …. Hội thảo “Nhà Mạc và họ Mạc ở vùng đất Vĩnh Phúc” (2012)
[25] Chu Xuân Giao: Đi tìm dấu ấn cha con Mạc Kính Diệu ở Quảng Châu, (báo cáo hội thảo Vĩnh Phúc, quý III, năm 2012) tr.15.
[26] Khâm định Việt sử thông giám cương mục,tập 2, NXB Giáo dục, tr.340.
[27] Tài liệu của phần viết về nhà Mạc ở Cao Bằng, chủ yếu dựa vào các sách:
-Mạc Đường: Góp phần đổi mới quan điểm đánh giá vương triều Mac, NXB Trẻ, S, 2005.
-Tìm hiểu nhà Mạc ở Cao Bằng, của Đại tá Nguyễn Thiên Tứ, bản thảo, chưa xuất bản. Nhân đây xin cám ơn tác giả.
[28] Tăng Bá Hoành: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:nhà văn hóa lớn thế kỷ 16, Tạp chí xưa và nay, số tháng 8 năm 2011, tr.14.
[29] Đỗ Đức Hùng: Một vài nét về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp dươi thời Mạc, trong sách Hội đồng lịch sử Hải Phòng: Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, H, 1996, tr,326.
[30] Đỗ Đức Hùng: Một vài nét về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp dươi thời Mạc, trong sách Hội đồng lịch sử Hải Phòng: Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, H, 1996, tr,336.
[31] Theo Thái Kế Toại: Một giả thiết về Mạc Kính Vũ…Báo cáo tại hội thảo khoa học “Nhà Mạc và hậu duệ ở Vĩnh Phúc”.
[32] Chu Xuân Giao: Ba vì vua cuối cùng…Tài liệu đã dẫn, tr.38.
[33] Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc
[34] TS Hoàng Lê-TS Nguyễn Minh Đức: Việc mai danh ẩn tích…., trong sách Kỷ yếu hội thảo khoa học vương triều Mạc trong lịch sử Việt Nam, Hà Nội 9-2010, tr. 378.
[35] Chu Xuân Giao: Ba vì vua Mạc cuối cùng…Tài liệu đã dẫn, tr. 38.
[36] Chu Xuân Giao: Ba vị vua Mạc cuối cùng….Tài liệu đã dẫn, tr.79.
Viết bình luận
Tin liên quan
-
83 năm Nhà Mạc ở Cao Bằng của Tác giả: Phạm Huy Thực (Trang Mạc Tộc Nghệ An)
-
GỌI THẾ NÀO CHO ĐÚNG. Tác giả : Hoàng Cương.
-
HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
-
VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
-
THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
-
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
-
VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
-
ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
-
VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
-
MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Họ Mạc, Nhà Mạc trong lịch sử
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC