- Đang online: 3
- Hôm qua: 1220
- Tuần nay: 19819
- Tổng truy cập: 3,370,830
THÁI HOÀNG THÁI HẬU VŨ THỊ NGỌC TOÀN TRIỀU NHÀ MẠC – BẬC MẪU NGHI THIÊN HẠ 795
- 1619 lượt xem
THÁI HOÀNG THÁI HẬU VŨ THỊ NGỌC TOÀN TRIỀU NHÀ MẠC – BẬC MẪU NGHI THIÊN HẠ
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi, Nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng
Nhà Sử học Ngô Đăng Lợi (phải) và đồng nghiệp thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2003
Tất cả các bộ chính sử nước ta soạn thời phong kiến đều không ghi chép gì về Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, chính cung Hoàng Thái Hậu của Thái Tổ Cao Hoàng đế Mạc Đăng Dung. Nhưng nhiều văn bia, tượng hậu Phật, cùng truyền thuyết dân gian lưu hành sâu rộng, nhất là huyện Nghị Dương (Kiến Thụy nay) trung tâm Dương Kinh triều Mạc. Theo các nguồn sử liệu trên, Bà người làng Trà Hương (tên Nôm làng Chè), huyện Nghị Dương, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương. Đến đời Nguyễn Minh Mạng (1820- 1841) mới đổi là Trà Phương vì kiêng tên quốc húy. Làng Chè là một làng cổ, ít nhất có từ thời Hậu Lý (1010-1225), vì câu đối trước cửa chùa Thiên Phúc làng này hiện còn đôi câu đối chữ Hán:
“ Lý triều khai sáng danh lam cựu
Mạc đại trùng hưng cảnh sắc tân”
Làng nổi tiếng là chốn địa linh nhân kiệt, thường sản sinh những bậc trâm anh, đức hạnh, sắc tài trọn vẹn. Phương dao có câu:
Cổ Trai đế vương, Trà Hương công chúa
Thời xưa có nhiều vị Hoàng hậu, cung phi, mệnh phụ phu nhân; thời Pháp thuộc có người lấy Hoàng thân Lào, có người lấy Giám đốc đài thiên văn Phù Liễn, Chủ tờ báo Tin tức Hải Phòng, được chồng nể phục, tranh thủ chồng tham gia tu bổ lớn chùa làng, bia ghi công hai ông bà hiện còn. Câu phương dao trên gắn với hình thế đất làng. Nếu đứng trên đỉnh núi Chè nhìn xuống cánh đồng làng thấy tạo hình chiếc gương, chiếc lược và con dao cau, tượng trưng đồ nữ trang và tài khéo léo của phụ nữ. Hiện nay, mương máng thủy lợi, nhà dân đan xen trên cánh đồng, nhưng dáng hình cũ vẫn còn dấu tích.
Làng Chè có nghề nông, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, buôn bán, nên thuộc loại làng mở, vì phải đi mua thêm nhiều dâu ở nhiều vùng; còn tơ sống cũng phải mua thêm; lụa dệt ra phải đem bán khắp nơi, kể cả cho lái buôn ngoại quốc thường cập bến ở bờ sông ở xã An Thái – An Thọ huyện An Lão không xa làng Chè.
Tộc phả cổ họ Vũ làng Chè không còn, nhưng di ngôn của tiên tổ thì họ này là một trong vọng tộc huyện Nghị Dương, có quan hệ huyết thống với họ Vũ làng Trung Hành, huyện An Dương, di duệ của khởi tổ ở làng Chằm, Vạc tức Mộ Trạch, Hoạch Trạch, huyện Bình Giang, xứ Đông. Làng có đến 36 vị đậu tiến sĩ Hán học, đứng đầu cả xứ và cũng là mấy làng nổi tiếng học hành, đậu đạt của cả nước. Theo gia phả họ mạc làng Cổ Trai, cô gái làng Chè lấy anh dân chài họ Mạc khi còn hàn vi. Cha mẹ Mạc Đăng Dung phải mở quán nước ở đến đò Cổ; còn Mạc Đăng Dung làm nghề đánh cá. Gia đình không có ruộng đất, định cư ở phường Thâm Võng, tức phường Lưới, chuyên xe gai đan lưới phơi chài. Dân vạn chài Bắc Bộ thuộc loại không có tấc đất cắm dùi – vô lập chùy chi địa – phải mua đất trong đê của xã sở tại để làm mộ địa và miếu thờ. Từ khi về nhà chồng, cô gái làng Chè tần tảo buôn bán giúp chồng ăn học, phát huy sở trường giỏi võ, giỏi vật; lại mời thầy dạy binh thư, binh pháp. Nhờ truyền thống thông minh hiếu học của tổ tiên, lại có chí quyết lập công danh, khôi phục danh tiếng dòng họ, đền đáp công lao người vợ đảm, nên năm 20 tuổi (1503) Mạc Đăng Dung đã đậu Tạo sĩ, tức Trang nguyên võ. Vua Lê Uy Mục (1505 – 1509) mến tài đức Mạc Đăng Dung, đã cử làm đội trưởng một đội quân túc vệ, phụ trách việc cầm dù che xe giá. Đến năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực, được tiến phong tước vũ Xuyên Bá, khi đó mới 28 tuổi. Do lập nhiều công trạng, theo chế độ ngày ấy, ông được mở phủ đệ riêng, ông chọn khu đất ở cuối làng Chè, quê người vợ của vua để làm nhà ở, mời thày dạy học thời niên thiếu. Phủ đề này mang tên Phủ Cao. Năm 1593, chúa Trịnh Tùng sai quan triệt hạ Dương Kinh, Phủ Cao bị phá. Thời thuộc Pháp, khi lập sân vận động phủ Kiến Thụy, gò nền Phủ Cao mới bị san bằng.
Hai mươi năm về làm dâu họ Mạc, bà Vũ Thị Ngọc Toàn không chỉ giúp chồng lập công danh, làm quân đầu triều mà còn giúp hai em ruột chồng là Mạc Đốc, Mạc Quyết, đích tử Mạc Đăng Doanh đều học hành thành đạt được vua Lê phong tước Từ Quận công, tín Tín Quận công. Khoảng đầu thời Quang Thiêu, Mạc Đăng Doanh được phong tước Dục Mỹ hầu, coi điện Kim Quang. Năm Canh Dần (1530) được nối ngôi cha, mười năm ở ngôi, vua xây dựng quốc gia thịnh trị, yên bình, được sử gia ca ngợi là bậc vua hiền. Khi chồng làm quan tại triều, Vũ phu nhân tranh thủ người đồng tộc, đồng hương là Vũ Hộ, quê làng Thù Du, nay thuộc xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy, một tướng tài, làm chức Đô đốc, Tổng trấn xứ Sơn Tây, Thượng thư bộ Lễ Phạm Gia Mô, quê làng Lê Xá, Thái úy Nguyễn Như Quế, quê làng Thạch Lựu, huyện An Lão, một nhà giáo tài đức, đông học trò…..đồng tâm giúp chồng..
Mặc Đăng Dung dựng nghiệp đế vương nhờ có công rất lớn của bà vợ họ Vũ. Khi chồng làm vua 3 năm (1527-1529), rồi truyền ngôi ra ở ngoài, nhưng vẫn định đoạt việc triều chính suốt 12 năm nữa, chính cung Hoàng Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn cai quản nội cung. Với tính nghiêm minh, chính trực, sáng suốt lại nhân từ, cung nữ kính tin, mến phục; các hoàng thân quốc thích thấy đều ra sức phụng sự vương triều, thượng tôn pháp chế. Ngay thời con cháu chắt bà làm vua, việc cai quản nội cung đều giao để các hoàng hậu đảm cung. Bà chỉ “chấp kỳ đại cương”, mà triều Mạc không hề xẩy ra hiện tượng hoàng thân quốc thích cậy thế lộng hành, không có hiện tượng không tài kém đức mà được tuyển bổ, được lấy đỗ hương cống, tiến sĩ. Hiếm triều đại đế vương nào ở nước ta sánh được về điểm này. Đối chiếu, so sánh các triều đại phong kiến theo chính sử và dã sử cho thấy điều này.
Đinh Tiên Hoàng, tên húy là Bộ Lĩnh, con quan thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, thời Dương Diên Nghệ, mất khi Bộ Lĩnh còn thơ dại. Nhưng thân mẫu Đinh Bộ Lĩnh lại cho con biết cha là một con rái cá lớn đã hiếp bà mang thai. Họ hàng biết đã rình rập đập chết rái cá lúc bò vào buồng mẹ Bộ Lĩnh, rồi giết thịt. Bà thương tình thu nhặt xương rái cá dấu trên gác bếp. Khi Bộ Lĩnh biết rõ năm tháng, ngày, giờ, rồng đá sông Hoàng Long mở miệng, ông hỏi mẹ nơi dấu hài cốt bố để đem táng vào hàm rồng, mẹ bảo dấu trên gác bếp, ông lấy xuống rửa sạch rồi bọc cỏ; khi rồng há miệng nhét vào. Nhờ mả bố táng hàm rồng, nên kết phát trở thành hoàng đế nước ta.
Còn Hoàng hậu Dương Vân Nga, đã tư thông với quan Thập đạo tướng quân Điện tiền chỉ huy sứ Lê Hoàn, khi chồng còn tại thế. Công lao của Đức Bà với đất nước là năm 980, quân Tống sang đánh, đã đem hoàng bào dâng lên Lê Hoàn để với danh hiệu hoàng đế chỉ huy quân dân chống giặc.
Lê Hoàn, người Thọ Xuân, Thanh Hóa, nhà nghèo “Cha dỡ đó, mẹ xó chùa”:
Sử chép cha tên là Mịch, nhưng nhiều sử gia khẳng định thợ khắc in lầm gắn chữa “bất” dính liền chữ “ ”, vì sử cũ ghi “phụ bất kiến”, nghĩa là cha không biết là ai. Vậy nên thân mẫu Đặng Thị Sen dấu không cho con biết đích phụ Ngài là ai.
Vì vậy, mới bị sử gia phê phán: “Vua gian dâm trong cung mà lấy được nước, dẹp giặc bên ngoài để yên dân, trong nước; về luân thường vợ chồng, có nhiều việc đáng thẹn”.
Lý Thái Tổ tên là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, mẹ họ Phạm đi chơi chùa Tiên Sơn, cùng người thần giao cấu sinh ra vua. Khi lên 3, mẹ đẻ ẵm đến nhà sư Lý Khánh Văn, ông này nhận làm con nuôi. Lý Khánh Văn là anh trai nhà sư Vạn Hạnh. Ngày ấy, dư luận cho sư Vạn Hạnh là cha Công Uẩn, nên có người đã đặt vè;
Con ai đem bỏ chùa này
Con sư, con sãi, con thầy thầy nuôi !
Thượng hoàng Trần Thừa. Sử chép, Ngài di săn gặp thôn nữ tên là Tần ở vườn dâu, ngài đã hiếp cô thôn nữ sinh ra Bà Liệt. Trong một trận đấu vật ở Kinh Thành, Thượng hoàng mới nhận người con hoang. Linh Từ Quốc mẫu lấy Lý Huệ Tông, sinh 2 công chúa. Khi Trần Thủ Độ bức tử Huệ Tông, lại lấy Linh Từ, bà em gái họ. Rồi Trần Thái Tông nghe mưu Trần Thủ Độ, cướp vợ của anh (Trần Liễu) đang có chửa, gây ra vụ loạn sông Cái. Vì vậy, các sử gia đều lên án nhà Trần về tội dâm loạn.
Lê Thái Tổ, húy Lê Lợi, quê Lam Sơn, Thanh Hóa, dựng cờ khởi nghĩa, trải bao gian hiểm suốt 10 năm mới đánh đuổi được nhà Minh tàn ác, tạo lên nghiệp lớn, được nhân dân tôn thờ kính tin. Nhưng nội dung có nhiều sai lầm, các bà vợ ngài đều không cáng đáng nổi nội cung, có người thất thiết, bị bức tử như Huệ Phi Phạm Thị Nghiêu, bị thát sủng như thần phi Trịnh Thị Lữ, mẹ quân vương Tư Tê. Còn Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần, mẹ Lê Thái Tông, sử chép khi Bình Định Vương bị vây ở cửa bể Trào Khẩu, huyện Hưng Nguyên, vào đền thờ thần Phổ Hộ, đêm mơ thấy vị thần đến xin một người thiếp, sẽ phù hộ tướng quân diệt được giặc Ngô, làm nên đế nghiệp. Một mình bà Ngọc Trần xin nhảy xuống cửa Trào Khẩu với điều kiện không phụ con bà là Lê Nguyên Long. Chuyện thần bí quá, các sử gia cho đó là thủ đoạn của phe công thần muốn lật đổ quận vương Tư Tề, con cả Lê Thái Tổ. Chuyện thần bí này chỉ làm hại danh giá Lê Thái tổ, vì đường đường là bậc chính nhân quân tử, sao lại sợ thần tà dâm, kém xa Cố Thiệu – đời Tam Quốc, chỉ là chức Thái thú quận Dự Chương mà cho phá hủy các đền thờ những thần bất chính, thần miếu Lư Sơn đòi làm trả đền, Cố Thiệu không nghe, thần chịu chết.
Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, triều Tây Sơn, cũng có chuyện bê bối tình ái với bà em dâu, dẫn đến nội bộ lục đục; bức cung Hoàng hậu Lê Thị Ngọc Hân của Hoàng đế Quang Trung lao đao, khốn khổ, sau khi anh hùng: “áo vải cờ đào” băng hà. Thậm chí mồ cũng không được yên, đời Triệu Trị bị khai quật do có kẻ xấu tố cáo làng Nành, quê mẹ đẻ, có “ mả ngụy”.
Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, bà hoàng có danh giá nhất triều Nguyễn. Vua Gia Long có rất nhiều cung tần mỹ nữ, chỉ có bà được các tác giả Đại Nam biết truyện ca ngợi: “Bà tính kiệm ước, hiền hậu, thông thạo kinh sử, hưởng sự phụng dưỡng của thiên hạ 30 năm ròng, tuổi gần 80, cháu tới hàng chút, nguồn vui tràn trê, thật là chuyện đẹp hiếm có xưa nay. Nhưng chính vua Gia Long đã tâm sự với một triều thần gốc Pháp là Chaigneau như sau: “Trị nước thật dễ dàng, không khó nhọc bằng trị chốn nội cung của mình”.
Vậy, tất cả các chính cung hoàng hậu, các đời vua khai sáng nước ta đều không bằng Hoàng Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn.
Không chỉ quản lý tốt nội cung, Vũ Thái Hoàng Thái hậu còn có công làm chùa tô tượng, đúc chuông, làm cầu, mở chợ, cúng dàng Tam bảo, nhắm hoằng dương chính pháp mà Phật lấy từ bi hỉ xả vô ngã vị tha làm tôn chỉ. Theo PGS-TS Đinh Khắc Thuân, tác giả Văn bia thời Mạc (NXB.HP-2010), chỉ tính riêng số bia ghi công đức hiện còn, chắc chắn không đủ, vì mất mát, vì không ghi bia, thì Đức bà vẫn là người đóng góp công, của nhiều nhất, chùa ít nhất 10 quan tiền. Chùa Báo Ân, xã An Chiểu, huyện Phủ Cừ, Hưng Yên, 6000 lá vàng; chùa Bảo Phúc, xã Thái Khê, huyện Yên Hưng – Quang Ninh; các chùa bà Đanh và Thiên Phúc, xã Thụy Hương, chùa Hòa Liễu, chùa Du lễ… đều thuộc huyện Kiến Thụy; chùa Hòa Tân, xã An Luận, huyện An Lão; chùa Đông Minh; chùa Đốc Hậu…. huyện Tiên Lãng… chùa ít thì mười mẫu, chùa nhiều nhất đến 30 mẫu. Số tiền trên đều do Đức Bà bỏ tiền riêng ra mua. Như vậy bổng lộc được hưởng phần nhiều dùng vào việc phúc đức.
Giáo sư Trương Đức Nghinh, trong chuyên luận “ Chợ chùa thế kỷ XVII” đăng trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử – Viện sử học số 4 (187) tháng 7-8/1979, phân tích khá sâu sắc quan hệ giữa chợ và chùa của làng quê Việt Nam, giáo sư chú ý khái niệm chùa Tam Bảo được phản ánh khá đậm trong các văn bản, bia kí nhiều thời kỳ lịch sử, đặc biệt ở thế kỷ XVII với 15 chùa Bắc Bộ, 2 chùa ở Thanh Hóa. Trong 15 chùa ở Bắc Bộ, chỉ có chùa Lực Hành, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, căn cứ theo văn bia cũ niên hiệu Chính Hòa 7 (1686) cũng là “Tam bảo cựu thi” (chợ Tam bảo cũ) nằm trong khu đất của chùa, có chợ “cổ tích thị triều nhất khu”. Vẫn theo giáo sư, thì bài này không có đề mục, năm Gia Long 12 (1813) khắc lại bia cũ niên hiệu Chính Hòa 7 (1686). Như vậy, giáo sư không được đọc thác bản văn bia thời Mạc ghi về chợ Chùa hay chợ Tam Bảo.
Còn về năm sinh, năm mất của Vũ Thái Hoàng Thái Hậu không có tài liệu nào ghi, nhưng có thể phỏng đoàn bà kém tuổi chuồng chút ít. Mạc Đăng Dung sinh ngày 23/11 năm Quý Mão, niên hiệu Hồng Đức 14 (1483). Những bia ghi Đức Bà đóng góp tiền của ruộng vườn để làm chùa, làm chợ, làm cầu….. đều ghi rõ năm tháng ngày niên hiệu vua Mạc thuộc hàng con, cháu chắt, đang trị vì đất nước. Bia sớm nhất là bia ghi việc Vũ Thái Hoàng Thái Hậu phát tâm bồ đề trùng tu chùa Bảo Lâm, xã Trâu Bộ, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn. Bia tạo tháng Giêng Kỷ Mùi, niên hiệu Quang Bảo thứ 5 (1559), triều vua Mạc Phúc Nguyên (1546-1592). Như vậy, Đức Bà sống thọ đến trên 100 tuổi và qua đời vào lúc 2 kinh triều Mạc vẫn còn giữ vững.
Lễ quốc tang chắc tổ chức long trọng, đầy đủ nghi thức theo điển lễ triều đình và những chùa, miếu, Đức Bà công đức tiền của chắc đều làm lễ cầu siêu. Hiếm người được như vậy.
Rõ ràng, Vũ Thái Hoàng Thái Hậu hưởng đủ “ngũ phúc tam đa”, ước nguyện của người phương Đông. Vương triều Mạc chỉ còn có danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm đạt được.
Gương sáng của Đức Bà còn giúp cho nữ giới hiện đại bài học quý giá về tu dưỡng bản thân, về xây dựng tổ ấm gia đình, về tham gia hoạt động xã hội.
Một số hình ảnh trong dịp Hội thảo:
Các đại biểu dự Hội thảo cùng Đại đức Mạc Hoa Năng Trình, dâng hương cáo yết tại Chùa Trà Phương, nơi phụng thờ tượng Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, trước giờ khai họp.
Ông Hoàng Văn Kể, Phó Chủ tịch Hội đồng Mạc tộc Việt Nam – Chủ tịch Hội đồng Mạc tộc Hải Phòng, Trưởng BTC Hội thảo phát biểu khai mạc.
Sưu tầm: Hoàng Sơn Hiền
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.