Sinh ra vào năm 1874, trong một dòng họ có truyền thống yêu nước, khoa bảng và nhân văn, ở vào thời gian mà nhân dân làng Tràng Thành quê ông đang đứng lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Cần Vương của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã, Phan Đăng Dư đã sớm bộc lộ tư chất của mình: ham học, khí khái, ghét áp bức cường quyền, ghét bọn xâm lược… Lúc nhỏ, cụ được cha mẹ cho đi học chữ Hán, cụ có dự thi hương Trường Nghệ nhưng không đỗ đạt, về nhà làm nghề bốc thuốc nam, làm thầy địa lý để giúp đỡ dân làng và giao du với bạn bè. Năm 1908, Cụ cử nhân Chu Trạc tập hợp những người nghĩa khí vào “nghĩa đảng” để mưu đồ sự nghiệp chống Pháp, cụ đã cùng một số bà con trong họ tham gia nghĩa quân, đồng thời vận động những nhà phú hữu góp tiền cho nghĩa quân mua võ khí. Với ít nhiều chữ nghĩa và năng khiếu làm thơ phú, câu đối, Phan Đăng Dư đã giúp Chu Trạc cùng Chu Trạc và những cộng sự thân tín soạn bài hịch cứu nước, những bản cáo thị sục sôi tinh thần yêu nước, chống Pháp có tác dụng thức tỉnh tinh thần nhân dân, mà đến nay ta được đọc đôi dòng trích trong các sách lịch sử:
“Ai là khách anh hùng xin hãy chung lưng đấu cật
Nước mất còn chỉ ở lúc ni”.
Tây và Nam triều tìm cách bắt bớ, tra tấn nghĩa quân, cụ Dư cũng bị bắt và bị đánh hỏng bàn tay cầm bút. Vì vậy khi đi thi, chữ cụ quá xấu nên bị đánh hỏng.
Khi người con trai cả Phan Đăng Lưu bỏ việc để đi vào con đường hoạt động cách mạng, cụ và cụ bà Trần Thị Liễu đã khuyến khích, tạo điều kiện để các con mở xưởng dệt vải khổ rộng tại làng để làm cơ sở hoạt động của Đại tổ Tân Việt Tràng Thành năm 1927-1928.
Từ cuối năm 1929 đến năm 1936, khi đồng chí Phan Đăng Lưu bị địch bắt đày vào nhà lao Ban Mê Thuột, hai vợ chồng cụ vừa phải tìm mọi cách để tránh sự theo dõi, khống chế của bọn mật thám và binh lính vừa giúp đỡ vợ con Phan Đăng Lưu vượt qua những năm tháng gian khó. Biết con trai đang ở tù nhưng cụ vẫn tin tưởng vào con đường các con đã đi “gửi chí lớn vào đàn con trẻ”.
Năm 1936, đồng chí Phan Đăng Lưu ra tù, tiếp tục hoạt động cách mạng và tiếp đó bị địch bắt và xử bắn vào ngày 25-5-1941. Đứng trước sự mất mát quá to lớn, cụ đã nén đau thương, động viên vợ con chịu đựng đau thương.
Trong những năm hoạt động cách mạng ở Huế, để che mắt địch, theo yêu cầu của công tác, đồng chí Phan Đăng Lưu đã kết hôn với bà Nhồng, giao thông viên của Xứ ủy và đã có một người con trai. Sau ngày đồng chí Phan Đăng Lưu hy sinh, bà Nhồng cùng con trai về quê Tràng Thành ở với ông bà. Thương hai người con dâu góa bụa và để tránh va chạm thường tình, cụ đã khuyên bà Nhồng: “Con còn trẻ quá, có ai thương thì chắp nối, ông bà nuôi cháu cho con”. Ở với hai cụ một thời gian, bà Nhồng trao người con lại cho hai cụ và tái giá với ông Bính, một cựu tù chính trị quê ở huyện Nghi Lộc. Người cháu trai ấy là Phan Đăng Luyến được ông bà nuôi dưỡng, sau này là Vụ phó của Ban Tổ chức Chính phủ (Bộ Nội vụ). Bà Nguyễn Thị Danh, vợ trước của đồng chí Phan Đăng Lưu ở quê với ông bà, tiếp tục tham gia Hội phụ nữ cứu quốc và trở thành Ủy viên chấp Ủy Việt Minh làng Tràng Thành từ tháng 12-1945, sau đó tiếp tục là Hội trưởng phụ nữ Tràng Thành nhiều năm.
Trong kháng chiến chống Pháp, các con cháu của cụ hầu hết đều thoát ly, tham gia kháng chiến. Ông Phan Đăng Tài, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa cướp chính quyền ở Hà Tĩnh, là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Hà Tĩnh, sau ra công tác ở Liên khu Bốn, rồi ra Việt Bắc.
Đầu năm 1955, trong cải cách ruộng đất, gia đình cụ Phan Đăng Dư bị quy địa chủ, tất cả nhà cửa, tài sản bị tịch thu. Cụ bị kết án 20 năm tù và bị giải đi nhà lao Bến Hới (Tân Kỳ). Trên đường từ trại Mụ Vạc (Đồng Thành-Yên Thành) lên Tân Kỳ, vì tuổi cao, sức yếu, bấy giờ cụ đã 80 tuổi, cụ không đi nổi, phải ngồi lên gióng cho các bạn tù thay nhau gánh đi, đường xa phải đi 2 ngày, vì đói, có lúc phải kéo trệt giữa đường. Lên đến Bến Hới, cụ đã yếu lắm rồi, hai ngày sau thì cụ qua đời. Có hai người tù cùng quê, một người là thông gia, một người là bà con… đã cùng các bạn tù chôn cất cụ. Sau mấy năm, một người anh em trong thân tộc đã lên Bến Hới bốc hài cốt cụ về an táng tại Bờ Già, gần làng Đông (tức là chòm Phan Đăng Lưu) quê cụ. Trong phong trào cất bốc mồ mả, cải tạo đồng ruộng những năm 1968 – 1972, những người trực tiếp cải táng cụ ở Bờ Già không còn nữa nên tổ bốc mộ đã bốc nhầm hài cốt của một người khác. Gần đây, con cháu đã tìm lại được phần mộ của cụ ở gần khu lăng mộ tộc họ ở Cồn Sùng Hoa Thành.
Rất đáng tiếc, người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng nhà cách mạng Phan Đăng Lưu lại bị những oan trái trước những va đập của lịch sử. Đảng ta đã nghiêm túc kiểm điểm và nhận sai lầm của cải cách ruộng đất. Trong đợt sửa sai ở Tràng Thành năm 1956, ông Trần Hữu Dực, ông Chu Văn Biên thay mặt tổ chức gặp ông Phan Đăng Tài (con trai cụ Dư) hỏi ý kiến về việc sẽ trả lại nhà cửa cho gia đình con cháu cụ Dư, nhưng ông Phan Đăng Tài nói: “Sai thì đã sai rồi, nhà thì bà con đã được chia nhau ở, mà cũng phần lớn là người trong xóm, trong họ, đều nghèo cả, gia đình không nhận và xin cứ giữ nguyên như thế cho bà con yên”.
Về thơ phú, cụ Phan Đăng Dư để lại một số câu đối, trướng… còn lại trong trí nhớ các bậc cao niên, trong thư viện gia đình, trong đó nổi bật nhất là bài phú Tự trào, phần nào nói lên cuộc đời, khí tiết và nỗi niềm của cụ. Bài phú Tự trào do ông Phan Đăng Tài chép lại cho tác giả.(Cụ Phan Đăng Dư viết bài phú tự trào trong thời gian người con trai cả của cụ là Phan Đăng Lưu đang ở trong nhà tù Ban Mê Thuật (1929-1936)
Tự trào
Xưa có một thầy:
Vốn dòng hào kiệt
Gặp bước long đong…
Trót sinh ra giữa buổi nhiễu nhương, cũng quyết theo đòi nghiên bút;
Từng nghĩ lắm lời khắc khoải, thầm mong rửa nhục cha ông.
Chí những toan cứu vãn sơn hà, giận nỗi không tài Gia Cát (1)
Lòng vốn ước khuông phò xã tắc, buồn thay thiếu trí Khương Công (2)
Thôi đành nương náu cho qua ngày tháng, duy gắng giữ gìn cho trọn thủy chung.
Vậy cho nên:
Khi bàn cờ, khi chén rượu, khi vọng nguyệt, khi thưởng hoa, ngất ngưởng tao nhân mặc khách.
Lúc ngọn suối, lúc hòn non, lúc trông mây, lúc hướng gió, ung dung dạo gót tiên bồng.
Đòi phen tay xách chiếc la bàn, tấp tểnh đóng vai Tả Ao(3), Hòa Chính(4).
Mấy buổi đầu kê pho Nam dược, lân la nối gót Tuệ Tĩnh(5), Lãn Ông(6).
Xót xóm làng trong cơn hoạn nạn, chẳng quản nửa đêm gà gáy, bắt mạch, bốc thuốc thang, cân nhắc bên hàn, bên nhiệt. Giúp đồng bào gặp bước khó khăn, không nề nắng dãi mưa dầu, xoay dương cơ, đặt mồ mả, nhắn nhe tay hổ, tay long.
Lúc trong làng ngoài xã có kẻ cười người khóc, lập tức vì bà con vui mướn thương vay, chắp nhặt phú, thơ, trướng, đối.
Khi ông đĩ(7), bà cu(8) lâm vận túng, cơn đen, sẵn sàng vì sự chủ mà cầu Tiên, vái Phật, đoán mò họa, phúc, cát, hung.
May mắn ra phúc chủ lộc thầy, thủ lợn, xôi gà có đủ.
Khó khăn lắm cây nhà lá vườn, cơi trầu hươu rượu cũng xong.
Như thế là:
Cuộc đời lặng lẽ
Ngày tháng thong dong…
Thời Kiệt Trụ mà mơ màng Nghiêu Thuấn
Cuộc Á Âu thêm thương nhớ Lạc Hồng.
Thấp thoáng bóng câu, chỉ mấy chốc mắt lòa chân chậm
Lơ thơ tin nhạn, kịp đòi khi đầu bạc răng long.
Rồi trí cũng kiệt, thân cũng mòn, gửi chí lớn vào đàn con cháu.
Nghĩ công không thành, danh không toại, ôm hận trường về với tổ tông.
——————-
(1), (2): Gia Cát Lượng, Khương Tử Nha, các vị danh tướng của Trung Quốc; (3), (4): Tả Ao, Hòa Chính: Những nhà phong thủy nổi tiếng của nước ta; (5), (6): Tuệ Tĩnh, Lãn Ông: các danh y của nước ta.
(7), (8): Tiếng địa phương Nghệ Tĩnh chỉ người sinh con gái, con trai đầu lòng.