Cuối thế kỷ XIV, chính quyền Đại Việt căn bản là một thể chế hỗn độn, duy trì những hình thức nửa vời của một nhà nước có xu hướng tập trung quyền lực với một tình trạng tản quyền rộng khắp. Sự gia tăng quyền lực của quý tộc địa phương, đặc biệt hoàng tộc, nổi lên đặc biệt mạnh với mô hình điền trang thái ấp từ cuối thế kỷ XIII, kết hợp với sự mở rộng lực lượng tăng lữ khắp đất nước khiến tiềm lực quốc gia bị cắt xén, quyền lực nhà nước có nguy cơ bị xói mòn. Quyền lực tư tưởng vốn thường do Nhà nước dẫn đạo chìm khuất vào non cao chứ không trở thành một chân đế chính trị như nhà Trần của thế kỷ XIII hi vọng. Trái lại, vào chùa để trốn thuế trở thành “tệ nạn” của thời đại buổi ấy, nhất là với một tư tưởng Đại Thừa vốn nhập nhằng đời-tục – Phật giáo đã không còn là nơi quy tụ tinh hoa xã hội và tái sản xuất lực lượng tinh hoa như thế kỷ XI-XII. Quả vậy, cái xã hội từng kiêu hãnh của thế kỷ XIII thì chỉ hơn 100 năm sau đã trở thành một cộng đồng bị phân cắt cả về tư tưởng và quân sự. Lực lượng tinh hoa xã hội phiêu dạt trong những điền trang thái ấp càng khiến tình trạng xã hội trở nên hỗn loạn và tiêu điều.
Trong bối cảnh đó, lại vào đúng giai đoạn thế lực ngoại xâm đưa quân đến những miền biên viễn, nhu cầu tập trung quân sự lần nữa lại trao quyền lực tối cao vào các thế lực quân sự, đúng hơn, vào tay người cầm giữ quân sự. Trong nhiều thế kỷ, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ… đã luôn là những “đấng sáng thế” ra triều đại mới dựa trên vị trí tổng lĩnh quân sự đó – đây là đặc trưng của truyền thống chính trị Đại Việt trước thế kỷ XV, nó đặc biệt thích hợp cho một mô hình nhà nước nơi quyền lực còn sơ khai và nhập nhằng. Những thể chế nào dựng mình trên sự pha trộn lợi ích không rõ ràng đều sẽ để quyền lực tối cao rơi vào lực lượng quân sự theo cùng cách đó. Cha con Lê Hoàn đã định chấm dứt xu hướng tản quyền đương thời bằng một nỗ lực giảm trừ Phật giáo và gia tăng Nho giáo, nhưng kết thúc của nhà Tiền Lê lại sẽ được lực lượng Phật giáo đặt định bằng “thần tượng chính trị Lý Công Uẩn”, người mang giữ cả quyền lực tư tưởng lẫn quyền lực quân sự đương thời. Cũng chính Lý Công Uẩn sẽ mở ra một mô hình chính trị tân thời cho gần 4 thế kỷ sau đó.
Cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly, đúng hơn, Lê Quý Ly tương ứng là người kế thừa vai trò chính trị từ thời Lê Hoàn. Cũng như các nhà khai sáng triều đại khác, ông có cơ hội thiết lập nên một đế chế theo ý chí của mình. Nhưng ông khác với các nhà khai lập trước, ông không phải là nhà quân sự thiên tài, ông thường thất trận khi đem quân ra biên ải. Nhưng từ thời nay mà nhìn lại, một cách khách quan nhất, ông là nhà khai lập triều đại có trí tuệ nhất và thuộc hàng tinh hoa nhất. Hãy nghe lời Ngô Sĩ Liên nói về việc Hồ Quý Ly phê phán kinh điển Nho gia tân thời: “Chu Tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải Lục kinh của các nhà nho Hán, Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân ở các bộ kinh để lại, rõ được đạo thánh nhân ở những lời huấn giải, vắt óc nghiền ngẫm, lý và tâm dung hợp. Ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì xa rộng, thực là tập đại thành của các tiên nho và cũng là khuôn mẫu cho những kẻ hậu học. Huống chi lại có Trình Tử xướng ở trước, và Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau, thì nghĩa đã tinh lắm rồi. Người sau mà có trước tác, thì cũng chỉ là mở mang cho rộng thêm, tô chuốc cho bóng thêm, có thế mà thôi, sao lại được chê bai bàn cãi?”(ĐVSKTT, Bản kỉ, q.8, tờ 28a). Lại thêm Ngô Thì Sĩ: “Nhan Uyên nói: đạo của Phu tử lớn lắm, thiên hạ không chỗ dung nạp nổi, cho nên ở Lỗ bị trục, ở Tề bị cùng khốn, ở Vệ bị thiệt hại, ở Thái bị vây, bị Yến Anh dèm pha, bị Võ Thúc chê trách, là lời người đồng thời, lại có kẻ truất xuống làm trung hiến, giáng làm tiên sư, thật là người mù chê mặt trời, mặt trăng không ánh sáng, có làm tổn hại gì được các vì sáng đó. Còn đến bảo Xương Lê là đạo Nho, Liêm, Lạc là trộm cắp. Đạo học các vị này khi ở Bắc, đã bị khuất trong thời bấy giờ, sang đến Nam, lại cũng bị đời sau bài bác, các ông thật là gặp ách vận, đáng than.”[2]. Bỏ qua định kiến Nho gia, có thể thấy âm thầm qua những lời chê trách xuất hiện một Hồ Quý Ly tinh thông Nho học, mà đặt vào trong tương quan với các thủ lĩnh quân sự từng xuất hiện, thì ông là một trường hợp đặc biệt. Việc phê phán những nền tảng Nho học trừu tượng bấy giờ ở phương Bắc chính là nền tảng cho một nỗ lực chính trị thực tiễn tận dụng Nho học vào phương Nam. Một điều khác lạ đã chớm bắt đầu vào cuối thế kỷ XIV ở Đại Việt: sự cải cách chính trị sẽ đến từ một nhà Nho thực tiễn, nói cách khác, một trí thức tinh hoa, và là một trí thức tinh hoa đang nắm lấy quyền lực quân sự, quyền lực tuyệt đối bấy giờ. Tự trong Hồ Quý Ly đã là sự tổng hợp của tinh hoa trí thức và tinh hoa quân sự, đó chính là điểm sáng sau 100 năm suy thoái của nền chính trị Đại Việt.
Những cải cách của Hồ Quý Ly vốn đã quá nổi tiếng trong cuộc luận bàn lịch sử, bởi cả tính phiêu lưu của nó lẫn ấn tượng về một quyết tâm chính trị – hành chính – kinh tế – quân sự vượt trước thời đại, cũng vì thế, đã không thể dung hợp với thời đại. Nếu ông chỉ thí nghiệm những cải cách của mình như Vương An Thạch ở Trung Quốc hoặc trượt trên những mơ mộng như Nguyễn Trường Tộ về sau, thì biết đâu lịch sử đã nghĩ về ông thuần túy như một nhà tư tưởng kì lạ. Nhưng Hồ Quý Ly từ lúc bắt đầu con đường chính trị của mình cho đến buổi kết thúc lại vẫn là một nhân vật chính trị dám thực hiện và đủ khả năng thực hiện những hoài bão của mình, dù không thể cân nhắc kĩ lưỡng xem những hoài bão được hiện thực hóa ấy sẽ dẫn lối nền chính trị về đâu. Lịch sử Việt Nam vốn khan hiếm những con người như vậy, sự khan hiếm cũng có lý do của nó: vì Đại Việt không phải là xứ sở dành cho những nhà cải cách chính trị.
Xét toàn diện, thì Hồ Quý Ly nổi bật nhất trong tư cách nhà cải cách chính trị, một đại biểu Nho giáo thực sự có quyền ban hành chính sách trên toàn nền chính trị. Có vẻ Hồ Quý Ly không chỉ cải cách chính trị, mà còn cải cách cả Nho học được truyền vào Đại Việt, đó vẫn thường là cách hành sự của những nhà chính trị thực tiễn, như Tạ Chí Đại Trường nhận xét:“Từ sự chọn lựa vị thế chính trị đó dẫn đến sự bài bác Luận ngữ và các Tống nho nổi danh như hai họ Chu, hai anh em họ Trình, thật là dễ hiểu. Đã nói chúng ta không có chi tiết lí luận của ông để có thể bàn sâu thêm, nhưng cái ý chính nổi bật của ông rõ ràng là không muốn theo khuôn thức thời đại, dù là khuôn thức của Thiên triều, của trung tâm xuất phát luồng tư tưởng chủ đạo đang lưu hành ở đất nước phiên thuộc. Từ tình thế riêng biệt của đất nước có ông ra tay đảm trách, ông muốn lập ra một môn phái mới (mà chúng ta không biết là gì) để cạnh tranh với các môn phái đương thời. Với vài câu còn lại trong sử, ta thấy ông chê trách các danh gia Tống nho đi vào lí thuyết mông lung nhiều mà không chú trọng đến thực hành. Vì thế dưới mắt Hồ Quý Li, Hàn Dũ mà danh tiếng nổi bật không phải vào lúc sinh thời (tuy với bài biểu đòi đốt xương Phật) nhưng được bốc cao nhờ các Tống nho về sau, con người của văn từ rổn rảng đó bị ông đặt vào hàng ngũ “đạo nho” (nho ăn trộm, nho vặt vãnh), cũng không phải là quá quắt. Nói một cách khác, Quý Li là nhà chính trị, là con người của hành động, không ưa lí thuyết, nên chê Tống nho “học rộng nhưng ít tài”, chê Khổng Tử thiếu ứng biến, chao đảo không quyết đoán”[3].
Thực vậy, với Hồ Quy Ly, sự giải thể Phật giáo và bước đầu xây dựng mô hình Nho giáo Đại Việt chính là cống hiến vĩ đại nhất mà ông để lại cho hậu thế. Dù rằng, cũng chính vì thế, vì công cuộc đập tan sự chia cắt địa phương và xây dựng nền hành chính mới, Hồ Quý Ly rốt cuộc phải đối đầu với chính thế lực Phật giáo và quý tộc địa phương, cuộc đối đầu làm tan vỡ cả đế chế quân sự – chính trị đầy công sức nhưng còn dang dở của ông.
Nho giáo của Hồ Quý Ly đã không bắt đầu như một tôn giáo, mà bắt đầu như nền tảng của các chiến lược trị nước: nó không phải là tôn giáo của nhân dân, mà là tôn giáo của Nhà nước; không phải là sự phản kháng của số đông, mà làsự áp bức của số ít. Chính vì thế, nếu Phật giáo giành được địa vị chính trị của mình từ thế kỷ X bằng những thế kỷ xâm nhập đời sống xã hội trước đó bên cạnh sự hình thành bộ phận tinh hoa Phật giáo có khả năng ngoại giao; thì Nho giáo lại bắt nhịp vào đời sống chính trị bằng sự hình thành Nhà nước dân tộc với những nỗ lực hành chính hóa lực lượng cầm quyền đầu tiên kể từ Lê Hoàn, đặc biệt phục sinh vào thời Hồ Quý Ly.
Cho nên Phật giáo là con nước dâng từ đời sống xã hội lên chính trị thiểu số, còn Nho giáo lại chảy xuống từ chính quyền thiểu số để thấm vào đời sống xã hội. Chức năng xã hội cụ thể đầu tiên của Nho giáo, vì thế, là chức năng hành chính. Và bởi vậy, nó chỉ được biến thành một tôn giáo toàn xã hội khi nào nhà nước giành được vị thế bá quyền trong xã hội, cái vị thế vốn chỉ thực sự trở thành sau chiến tranh và sự đổ vỡ của xã hội cũ: Nhà nước dân tộc chỉ lớn mạnh sau chiến thắng Nguyên – Mông vào thế kỷ XIII của nhà Trần và định hình vào thế kỷ XV sau chiến thắng của nhà Lê trước quân Minh. Giữa khoảng đó là cuộc đứt gãy ý thức hệ, cuộc chuyển giao những tư tưởng của thời đại và cuộc tập trung hóa quyền lực để hình thành và gia tăng sức mạnh hành chính của Hồ Quý Ly.
Không hề ngạc nhiên khi thế kỷ XIII còn đang chứng kiến những thành tựu hoàng kim của Phật giáo lại là thời điểm Nho giáo cất lên những phát ngôn thách thức Phật giáo; vào thời đại của Hồ Quý Ly đã xảy ra cuộc thanh lọc Phật giáo để giải tỏa những ảnh hưởng dường như quá lớn tại các vùng nông thôn cắt quãng, cùng lúc đó mở rộng ảnh hưởng của Nho giáo đối với việc xây dựng bộ máy hành chính và tinh hoa nhà nước bằng các trường đào tạo và các kì thi. Đến thế kỷ XV sau đó, Đại Việt lại chứng kiến cái đình lần lữa thay thế nhà chùa. Toàn bộ quá trình đó được nhìn nhận như mộthậu quả của lịch sử, hay sự hiện thực hóa khuynh hướng đặc thù của lịch sử: “Như thế Phật giáo lui dần,ít ra trong lãnh vực chính trị, văn hóa, còn Nho giáo thì tiến mãi và cung cấp ngày càng đông viên chức cho bộ máy Nhà nước phong kiến. Tuy ban đầu quan nho chỉ ở cấp thấp, họ lục tục trèo lên, như lấy vai mà lấn lần các ông quý tộc phong kiến ra khỏi phần lớn các chức vụ thiết thực, sự lấn lần thắng lợi đó là hợp với quyền lợi của hạng nho sĩ, vừa phù hợp với lợi ích của bộ máy nhà nước phong kiến trung ương khi tình thế không cho phép các thân vương đã có thái ấp lại có quân đội và hành chính riêng làm yếu chính quyền trung ương dù chỉ ở một mức độ không nặng nề gì lắm… Nho giáo từ xưa có thể là hệ ý thức của vương triều thống nhất, mà cũng đã từng là hệ ý thức của vương triều cát cứ; nó không nhất thiết là yếu tố dẫn đến thống nhất, đến tập trung quyền lực quốc gia. Sự thống nhất, sự tập trung quyền lực quốc gia ở nước ta đáp ứng trước hết cái nhu cầu độc lập dân tộc”[4].
Có lẽ, với Hồ Quý Ly, việc tuyển quan chức hành chính theo tiêu chuẩn Nho học là bởi với ông, chức năng căn bản nhất của Nho giáo là chức năng bổ sung và phục vụ cho nhiệm vụ hành chính của chính quyền; do đó, những trí thức của nó, các nhà nho, ban đầu chủ yếu có hai chức năng: (a) người nắm giữ/duy trì các giá trị Nho giáo và (b) các quan chức hành chính. Không phải lúc nào hai chức năng này cũng trùng khớp trong vai trò thực tế của họ, nhưng rõ ràng sự lớn dần lên của tính chất hành chính trong việc quản lý ở các vùng, cùng với sự suy yếu của quý tộc địa phương, kết hợp tình trạng tan vỡ của các cộng đồng mang tính công xã và đi kèm với quá trình bành trướng ảnh hưởng độc đoán của nhà nước trung ương – tất cả đã cùng lúc tạo nên một năng lượng lịch sử dồi dào cho các trí thức Nho giáo nổi lên chiếm lĩnh kịch trường lịch sử.
Một quá trình lịch sử đi xa từ năng lượng và xu hướng đó đã tạo ra hai kết quả lịch sử, hai sứ mệnh bản chất của Nho giáo ở Việt Nam, bắt đầu từ Hồ Quý Ly: (i) xóa nhòa các giá trị chính trị địa phương (hay, làm suy yếu ảnh hưởng của quý tộc địa phương, truyền bá các giá trị chính trị phổ quát của hệ thống mới – nhiệm vụ này của Nho giáo sẽ còn kéo dài trong suốt lịch sử hiện diện của triều đình phong kiến); và (ii) củng cố bộ máy hành chính làm gia tăng sức mạnh của nhà nước trung ương. Cả hai kết quả này đã góp phần làm nên một trường chính trị Nho giáo mà ảnh hưởng của nó từ cuối thế kỷ XIV sẽ chi phối suốt những thời kỳ giàu có sau thế kỷ XV – đáng để nói, Nho giáo vốn không quyết định sự tản quyền hay tập quyền, nhưng các nho sĩ đã từng bước trở thành những nhân vật thiết yếu của kịch trường lịch sử dù ở thời loạn ly hay thống nhất. Hồ Quý Ly đã mở đầu vai trò này của một Nho sĩ, ông là Nho sĩ đầu tiên thực sự làm biến chuyển thời đại của mình bằng tri thức Nho học. Cái nợ tinh thần của những thế hệ sau ông đối với ông vẫn là không thể chối bỏ.
Tuy vậy, khoảng cách giữa hai tình trạng tản quyền và tập quyền, đi liền với tiến trình bành trướng của Nho giáo, dù nằm trong cùng một khuynh hướng/động lực lịch sử, lại được kiến tạo mạnh mẽ nhất trong giai đoạn đau đớn của lịch sử dân tộc: giai đoạn nhà Hồ và thuộc Minh: “Dưới quyền Hồ Quý Ly, số trường học tăng lên gấp bội, mở đến châu huyện. Nhà nước cấp ruộng để nuôi thầy, mở lớp, mua sách. Lúc này hoàn toàn không còn học và thi tam giáo nữa, chỉ riêng Nho giáo được suy tôn…Điều chắc chắn là đến nhà Hồ, Nho giáo đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong bộ máy nhà nước, và sự thất bại của cha con Hồ Quý Ly không phải xa lạ gì với sự thất bại, bất lực của Nho giáo trên nhiều mặt, đặc biệt ởtư tưởng quân thần”[5]. Sự thất bại của nhà Hồ là điểm nút đóng gọn quá trình khởi đầu từ Lê Hoàn/ Lê Long Đĩnh trong việc vừa củng cố quyền lực nhà nước (giai đoạn sinh thành quyền lực công của nhà nước) – nghĩa là phải đối đầu với quý tộc địa phương, vừa loại bỏ ảnh hưởng/vai trò chính trị của Phật giáo. Vướng mắc từ Lê Long Đĩnh trong nỗ lực của cả triều đại lẫn lịch sử chính là: sự giải thể trật tự quyền lực hình học phi trung tâm Mandala[6] bắt buộc sự tham gia của Phật giáo, nhưng chính Phật giáo lại sẽ ngăn cản những bước tiến xa hơn của tính hành chính trong nhà nước. Chính nỗ lực loại bỏ Phật giáo của Lê Long Đĩnh đã khiến tăng lữ tập trung sức mạnh hất đổ vương triều này – cái sức mạnh vốn được thiết lập để đối chọi với quyền lực đế vương đã mang lấy hình hài nhà nước. Nhưng bản chất của tăng lữ là có sự tách rời với hành chính (ta sẽ thấy, Phật giáo ở mọi nơi đều đã tiến hành một quá trình xâm chiếm vương quyền, nhưng rốt cuộc đều rút lui hoặc lụi tàn trên sân khấu lịch sử). Bởi thế, mặc dù trật tự Mandala từ Lý trở nên suy tàn nhờ vào sự suy yếu của tín ngưỡng địa phương dưới ảnh hưởng Phật giáo, việc định đô ở một vùng có thể cung cấp cho vương triều nhiều nguồn lực hơn trước (mà, thực chất của định đô ở Thăng Long nhằm làm mờ đi tính phi chính thống của lực lượng lưu vong nhà Lý); thì suốt từ Lý đến Trần, dù cái học Nho giáo cùng các nho sĩ xuất hiện chính thức tăng lên, nhưng tính lỏng lẻo của hệ thống quyền lực công đã ngăn cản một nhà nước mạnh và thống nhất xuất hiện. Nhà nước dân tộc khởi nguồn từ Trần sau đó cũng bị phân tán trong tình trạng cát cứ của các vương tôn quý tộc nhà Trần – một tình trạng được tiếp thêm năng lượng bởi tính liên kết mờ nhạt của Phật giáo giữa các vùng.
Hồ Quý Ly, đứng trước thời đại suy tàn và suy thoái, đã nỗ lực tạo nên một hệ thống trí thức hướng thượng rộng khắp, củng cố tính chất hành chính đã bại hoại vì cát cứ. Từ Hồ Quý Ly, quá trình xã hội hóa chính trị của Nho giáo mới thực sự bắt đầu. Các nho sĩ được đào luyện chính thức trong hệ thống nhà trường của nhà Hồ sẽ là những người tiếp tục ý chí nhà nước dưới nhà Lê: chính Nguyễn Trãi, người đặt nền móng cho 400 năm kế tiếp, là một học trò được đào luyện trong môi trường như thế. Như một bi kịch thường thấy của những người cải cách thực sự của lịch sử, các nỗ lực Nho giáo hóa xã hội dưới cố gắng của Hồ Quý Ly đã gặp phải hai lực phản kháng làm tan vỡ xã hội: sự phản kháng của hệ thống xã hội hóa chính trị cũ (của Phật giáo) cùng sự phản kháng của những đại diện trật tự quyền lực cũ (quý tộc nhà Trần). Đúng như GS Trần Văn Giàu nhận xét, sự thất bại của tư tưởng quân thần, nói cách khác là sự thất bại của nỗ lực xã hội hóa chính trị bằng Nho giáo đã đẩy triều đại nhà Hồ lên đoạn đầu đài của nó. Cái bi kịch ngắn ngủi của những người tiên phong, Lê Long Đĩnh với sự chấm dứt của trật tự Mandala và Hồ Quý Ly với sự giải thể quyền lực chính trị của Phật giáo sẽ tạo nên một xã hội thực sự mới – chính xã hội này sẽ tập hợp sức mạnh của nó để đứng vững trước nỗ lực đồng hóa của Bắc triều và tiến xuống phía Nam cho tới tận bờ biển.
Nên nói và nhận xét về Hồ Quý Ly như thế nào? Đối với nhà sử học ngày nay, và đối với cả hậu thế, việc đánh giá một nhân vật phức tạp, vốn sinh trưởng trong một thời đại phức tạp, lại phức tạp hơn bao giờ hết. Đặc biệt Hồ Quý Ly gắn mình với những biến thiên của lịch sử, ông sinh ra vốn đã tự ở trong thời đại bi kịch của nước nhà. Những gì Hồ Quý Ly thực hiện trên lý tưởng của mình không cần đến lời biện minh nào cả, tự nó tìm thấy sức sống của nó trong lịch sử. Đó là sự nghiệp của người anh hùng, sự nghiệp mang tính cách anh hùng. Nhưng lịch sử bao giờ cũng vô ơn, vì lịch sử thường khi chỉ quan tâm tới những chiến công hơn là những người đã đặt nền móng cho nó được tiến hành. Hãy kết lại cái nhìn về Hồ Quý Ly như một nhà nghiên cứu đã nói: “Đúng ông là nhân vật người anh hùng. Ông không phải là nhà đạo đức, không câu nệ ở đạo đức. Và đương nhiên, khi người anh hùng đó thảo luận về tư tưởng thì cũng sẽ có chất “anh hùng” trong thảo luận về tư tưởng hơn là dáng dấp học giả, chất Nho lâm, tức là cũng có chút ít chất võ biền trong chữ nghĩa. Chất “anh hùng” ấy giúp Hồ Quý Ly không cảm thấy e ngại khi giải thích kinh điển không theo Trình Chu, chê Khổng Phu tử, thích đề cao ai mặc theo sở đắc và dụng ý của mình. Người anh hùng ấy lại đang nắm quyền lực chính trị trong tay, thì sự phát biểu lại càng không cần phải ngại ngùng gì nữa. Chất anh hùng ấy giúp ông thoát được những cái bóng, những nỗi ám ảnh,những sợi dây ràng buộc mà những nhà nho khác không vượt qua được”[7].
[1]Bản dịch thơ của Hồ Văn Thiện:
Lật thuyền mới biết dân như nước
Cậy hiểm khôn ngăn mệnh của trời
Họa phúc có nguồn đâu một chốc
Anh hùng di hận mãi muôn đời
Xưa nay trời đất vô cùng ý
Khói tụ thung xanh lớp sóng dồi
[2]Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu,Sài Gòn 1960
[3]Tạ Chí Đại Trường: Sử Việt đọc vài quyển, Văn mới;Califonia 2004. Tr66.
[4]Trần Văn Giàu, Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, Tập I, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, NXB CTQG, 1996, tr65-66
[5]Trần Văn Giàu, sđd, tr 68
[6]Mô hình Mandala được xem là mô hình quyền lực Đông Nam Á nhằm “Mô tả có sức thuyết phục nhất về bản chất của những quốc gia này là mô tả của nhà sử học Oliver Wolters đưa ra. Ông đề xuất rằng trong những quốc gia xưa nhất ở Đông Nam Á, quyền lực không dựa trên nguồn gốc từ một dòng dõi lâu đời, mà dựa trên những phẩm chất tinh thần cá nhân. Wolters tin rằng, những quốc gia xưa nhất ở Đông Nam Á ra đời khi những khu định cư nhỏ kết hợp với nhau quanh cái mà ông gọi là “những người ưu việt”, những người có thể thuyết phục những người khác tin theo họ bằng tài năng tinh thần hơn người của họ. Những khu định cư lân cận sau đó có lẽ cũng nhận ra ánh hòa quang nổi bật của một con người như thế, tự liên minh với ông ta để được che chở hoặc để tăng thêm địa vị của riêng họ. Khi một người ưu việt như thế chết, việc nâng ông ta lên ngang địa vị của những tổ tiên đáng kính có thể đã đem lại sự thống nhất qua thời gian cho cộng đồng… Các khu định cư liên minh đã xây dựng một mandala, một dạng hình học đầy quyền lực về tinh thần, quanh khu định cư trung tâm… Hình thể Mandala có thể được trình bày như một khối liên kết địa vị chính trị; một vương quốc lý tưởng như thế loại trừ được những mối đe dọa và những ảnh hưởng không mong muốn. Ngay trung tâm sẽ là người cai trị, được vây quanh bởi những cận thần của ông ta…” M. Somers Heudhues, Lịch sử phát triển Đông Nam Á, NXB VHTT 2007, tr 23-24
[7]Nguyễn Kim Sơn, Hồ Quý Ly, Đạo đức công phu hay chính trị thực hành – bàn về tư tưởng Nho giáo của Hồ Quý Ly, nguồn: http://nkson.blogspot.com/2010/11/ho-quy-ly_01.html.
(Nguồn Văn hóa Nghệ An)