- Đang online: 4
- Hôm qua: 992
- Tuần nay: 18317
- Tổng truy cập: 3,370,406
ĐÌNH TÂY ĐẰNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP ĐẶC BIỆT QUỐC GIA 687
- 376 lượt xem
ĐÌNH TÂY ĐẰNG
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP ĐẶC BIỆT QUỐC GIA
Ảnh do tác giả cung cấp
Nguyễn Địch Long
I. ĐÌNH LÀNG VIỆT
Nước Việt Nam qua bao thăng trầm bi tráng của lịch sử dựng nước giữ nước, chống ngoại xâm để bảo vệ giang sơn thiêng liêng của biết bao thế hệ cha ông đã dày công vun đắp. Làng Việt phát triển theo tiến trình lịch sử đất nước. Mỗi làng đều có những yếu tố địa văn hóa và đặc điểm riêng về ý thức hệ, chiến công xây dựng và chống giặc ngoại xâm. Làng còn mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc của những người con đã gắn bó với quê hương yêu quý của mình. Trên cơ sở đó làng ra đời. Đình là nơi thờ cúng vị Thành Hoàng làng có công lao đặc biệt với làng như đánh đuổi giặc ngoại xâm, hộ công trợ giúp bảo vệ dân làng, lo cho dân tổ chức đảm bảo cuộc sống bền vững. Đình còn là nơi tổ chức lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Mỗi làng tùy theo nét truyền thống văn hóa, vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế xã hội riêng mà xây dựng ngôi đình với quy mô kích thước và mức độ kỹ – mỹ thuật khác nhau, hướng phong thủy của đình cũng không giống nhau. Thành Hoàng có thể là nhân thần hoặc thiên thần hay những hình tượng dị biệt mà nhân dân tôn thờ. Ví dụ làng Liêu Xuyên quê tôi, tương truyền Vua thân chinh đi đánh giặc, khi chiến thuyền vào sông Lô Giang (con sông có đoạn hình quả bầu), gặp thế giặc mạnh đang đuổi gấp, thuyền chạy đến khúc sông gần làng, nhìn thấy một cây Phù dung cổ thụ, Người liền khấn: “Nếu vận nước còn thì xin hãy phù hộ cho ta vượt qua lúc nguy khó này”. Vua vừa khấn xong, bỗng cây Phù dung đổ rạp xuống, ngăn kín cả dòng sông. Giặc bất thần bị chặn đứng liền quay lui. Vua thoát hiểm trở về tổ chức lực lượng rồi đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Vua lệnh cho làng xây đình để thờ cúng vị thần Phù dung đã cứu vua giúp nước.
II. ĐÌNH ĐOÀI
Nhân dân thường lưu truyền câu “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Ta thử tìm hiểu câu nói đó ý nghĩa ra sao mà âm vang đến thế?
Như đã biết, Nam Định, trấn Sơn Nam Hạ là vùng đất mới, sông ngòi kênh rạch dọc ngang như mắt lưới giống vùng Đồng Tháp Mười Nam bộ. Từ lâu nhân dân Nam Định đã biết bắc những cây cầu kiểu “Thượng gia hạ kiều”. Trên mỗi cây cầu người ta thường làm một mái che để bảo vệ cầu và làm nơi nghỉ cho người qua cầu lúc nắng mưa. Ngay làng Tri Lễ (Thanh Oai) quê hương các cụ nhà tôi cũng có một cây cầu như vậy. Tiếc rằng loại cầu này hiện không còn bao nhiêu nữa.
Ta lại thấy rằng, Bắc Ninh là vùng đất cổ, có nhiều chùa chiền cổ kính được xây dựng rất lâu đời mang đậm ý nghĩa tâm linh, bản sắc văn hóa đặc biệt. Những ngôi chùa nổi tiếng như:
– Chùa Dâu thờ bà Chúa Dâu, được xây dựng vào thế kỷ II (khoảng trước năm 187) dưới thời thái thú Sỹ Nhiếp, người được mệnh danh là “Nam giao học tổ”. Chính ông đã cho xây dựng chùa ngay trong thành Luy Lâu – kinh đô đất Giao Chỉ xưa. Vị thiền sư người Ấn đã trụ trì đầu tiên ngôi chùa này. Nói như thế để hiểu rằng đạo Phật vào Việt Nam sớm hơn Trung Hoa khoảng trên 300 năm!
– Chùa Tiêu Sơn, nơi Hòa thượng Lý Khánh Văn (em ruột nhà sư Lý Khánh Vạn tức Thiền sư Vạn Hạnh) đã nuôi dạy Lý Công Uẩn nên người và chính Người là đức Vua Lý Thái Tổ tôn kính.
– Chùa Phật Tích xây dựng vào thời Lý Thánh Tông (1057). Đây là thời kì hưng thịnh của nhà Lý. Chùa Phật Tích có pho tượng ngọc bích nguyên khối lớn nhất Việt Nam. Chùa rất linh thiêng. Sau này người ta đã cho dựng pho tượng phiên bản đồ sộ hơn rất nhiều trên đỉnh một ngọn núi sau chùa.
– Chùa Giáng Long (Quế Võ), nhân dân thường gọi là chùa Hàm Long, xây dựng thời Lê sơ giữa thế kỷ XV. Nơi đây giam giữ nhiều “trùng vong” mà nhân dân khắp xa gần đưa vong hồn những người quá cố đến đây nhờ cậy. Khái Hưng đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hồn bướm mơ tiên chính tại ngôi chùa này, với chàng sinh viên tên Ngọc và cô tiểu Lan giả trai. Câu chuyện để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu sắc với thế hệ trẻ một thời. Chính những ngôi chùa nổi tiếng như vậy nên người ta ca ngợi “chùa Bắc” là hoàn toàn có cơ sở.
Xứ Đoài xưa, hay còn gọi là trấn Sơn Tây hoặc trấn Hưng Hóa, là miền quê có nhiều ngôi đình nổi tiếng của người Việt cổ. Đình Đoài mang dáng vóc kiến trúc kỳ vĩ, ý nghĩa tâm linh sâu sắc.
Theo một số tài liệu cho biết trong cả nước có những ngôi đình tiêu biểu như sau:
- Đình Bảng (Bắc Ninh)
- Đình Bát Tràng (Hà Nội)
- Đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc)
- Đình Tiên Hường (Vĩnh Phúc)
- Đình Tây Đằng (Hà Nội)
- Đình Chu Quyến (Hà Nội)
- Đình Thổ Hà (Bắc Giang)
- Đình Phù Lão (Bắc Giang)
- Đình Hoàng Sơn (Nghệ An)
Trừ đình Tây Đằng, những ngôi đình còn lại đều được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII.
Theo cuốn Di tích lịch sử Hà Tây, thì trên địa bàn toàn tỉnh có 820 ngôi đình đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa.
Những ngôi đình này phần lớn được xây dựng vào thế kỷ XVII và XVIII như các đình: Chu Quyến, Quang Húc, Phú Hữu, Phú Xuyên, Đông Viên, Viên Châu, Phương Châu, Cộng Hòa (Ba Vì), Tường Phiêu, Mông Phụ (Sơn Tây), Đại Phùng (Đan Phượng), Cấn Hữu và đình So (Quốc Oai)… Nhân dân nơi đây thường truyền nhau câu “Đẹp đình So, to đình Cấn”. Đình So đẹp cả vị trí: có sông trước mặt, có núi đất quanh năm xanh tốt sau lưng; nội thất ngôi đình rất đặc biệt, còn nguyên nét cổ xưa.
Giáo sư Trần Quốc Vượng lúc sinh thời đã khẳng định: Đình cổ nhất cả nước có 5 ngôi thì Hà Nội chiếm cả 5, riêng Ba Vì có đến 3 ngôi, đó là: đình Tây Đằng, đình Thanh Lũng và đình Thụy Phiêu. 3 ngôi đình này đều xây dựng vào đầu thế kỷ XVI dưới thời nhà Mạc. Vật liệu xây dựng đình hoàn toàn bằng gỗ mít và gỗ thông đỏ. Đình Chèm (Từ Liêm) xây dựng trên 1.000 năm, đình Quảng Văn (Cửa Nam) xây dựng vào thời Lê sơ. Nhưng những ngôi đình trên phải đến đời nhà Mạc mới được hoàn thiện.
Vùng núi Ba Vì nơi có đền thờ Đức Thánh Tản Viên Sơn, người là Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh trong truyền thuyết “Sơn Tinh – Thủy Tinh”. Ngài dạy dân biết chế ngự thiên nhiên, đắp đê phòng lụt, gieo trồng cấy lúa phát triển sản xuất, đánh giặc ngoại xâm. Ngài là Đức Thánh Tổ của nền văn minh lúa nước. Người được nhân dân cả nước tôn thờ Đệ Nhất Phúc Thần. Các đình làng ở hầu hết trong huyện Ba Vì cũng như trong vùng đất xứ Đoài xưa đều suy tôn Ngài là Thành Hoàng Làng để thờ cúng và tỏ lòng thành kính, tri ân.
III. ĐÌNH TÂY ĐẰNG
TINH HOA VĂN HÓA KIẾN TRÚC CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ
Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, đã ngót 500 năm tuổi được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên (1531). Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần. Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp, hướng Nam dé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì. Đi qua cổng chính ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh khí. Tiếp đến nghi môn gồm bốn cột đồng trụ, hai cột thấp bên trên có hai nghê chầu, hai cột cao, bên trên mỗi đầu cột có bốn chim phượng uốn lượn vút lên như một bông hoa dành dành, thể hiện thế nghiêm thiêng của ngôi đình. Sau nghi môn là một sân rộng, nơi tổ chức lễ hội vào dịp xuân về hoặc những ngày cúng tế. Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình. Trước đây, thềm đại đình chỉ cao khoảng 40 cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã được nâng thành bậc tam cấp cao 75 cm. Sàn đình rộng 360 m2, được bố cục kiểu 3 gian 2 dĩ với sáu hàng cột: hai cột cái, hai cột quân và hai cột con, đó cũng là nét đặc trưng của những ngôi đình cổ. Tất cả các cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng bông đòng đòng và được ngồi trên chân tảng đá ong. Tất cả các cột quân và cột con đều có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân đế nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”. Gian chính giữa đình là sàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Sàn thờ quanh năm đóng cửa, trừ những ngày lễ hội. Nhưng do đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm! Các gian hai bên còn lại được bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng. Kết cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ nơi vùng sơn cước. Khác biệt của đình Tây Đằng so với phần lớn các ngôi đình khác là không có ván thưng xung quanh, nhờ đó công trình trở nên thông thoáng hơn và bền vững với thời gian. Do đình thấp nên người Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo, mặc dù không có quá giang: việc liên kết cột cái với cột quân là chếnh bằng, trên chếnh bằng là chồng rường tạo độ dốc cho mái, bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái; chỉ có câu đầu liên kết cột cái, tiếp đến là chếnh bằng nối cột cái với cột quân; hệ thống xà thượng giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau, cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc hơn. Bí quyết của cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở chỗ dùng mộng thắt đuôi én, ngàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột con choãi chân thang ra ngoài. Do đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả sau khi đã tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, công trình hoàn toàn không suy chuyển gì, vẫn vững vàng cùng năm tháng.
Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau từ họa tiết kẻ liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều có hoa văn đẹp, mỗi hoa văn một kiểu. Các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: họa tiết người nông dân trồng cấy lúa của vùng đồng bằng Bắc bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải, đua thuyền của Nam bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú và hàng chục các nữ thần cỡi mây bay lượn trên bầu trời, các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát mái ngôi đình. Hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn và “Bà Banh” mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân xứ Chămpa.
Năm 2005, Bộ Văn hóa đã chủ trì việc trùng tu ngôi đình. Cột gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố giữ lại nguyên bản. Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo tồn nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu đã đảm bảo kĩ thuật tốt, đảm bảo độ vững chãi của ngôi đình. Tiếc rằng, toàn bộ các cột được thay thế chỉ giữ lại được phần thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng thì đã biến mất nên phần nào xa cách người xưa.
Đình Tây Đằng là sản phẩm đặc biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả vật thể lẫn phi vật thể của ông cha để lại cho bao đời sau. Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc tài hoa, sống động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ XVI và là di sản văn hóa độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu hôm nay. Hãy biết bảo tồn, tôn tạo và gìn giữ di sản đặc biệt quý giá này.
Một số hình ảnh về đình Tây Đằng lấy từ Google
Viết bình luận
Tin liên quan
- HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- VÈ ĐỀN BÀ CHÚA CỘT CỜ Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
- THỜI KỲ CÁC VUA MẠC CỦA VƯƠNG QUỐC CAO BẰNG (1593-1683)
- GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN BIA HÁN NÔM THỜI MẠC: TƯ LIỆU VÀ KHẢO CỨU. Tác giả: GSTS Đinh Khắc Thuân.
- VỀ SỰ KIỆN BIÊN GIỚI NĂM 1540 GIỮA NHÀ MINH VÀ NHÀ MẠC.
- ĐÌNH TÂY ĐẰNG: VẺ ĐẸP KIẾN TRÚC GỖ TIÊU BIỂU THỜI MẠC
- VỀ NHỮNG THIÉU SÓT VÀ BẤT HỢP LÝ TRONG SỬ SÁCH VỀ MẠC ĐĂNG DUNG VÀ NHÀ MẠC.
- MẠC ĐĨNH CHI: TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG KHIẾN TRIỀU THẦN NHÀ NGUYÊN KÍNH NỂ.
- THANH LONG ĐAO BẢO VẬT QUỐC GIA
- BÍ ẨN “DI NGÔN CHÍ” TRÊN BIA ĐÁ CỔ TÌM THẤY Ở HẢI PHÒNG
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.