- Đang online: 5
- Hôm qua: 1220
- Tuần nay: 21975
- Tổng truy cập: 3,371,493
Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung
- 892 lượt xem
Phần 12
Trần Cảo người trang Dưỡng Chân, huyện Thuỷ Đường, sức khoẻ hơn người, thuở hàn vi sống bằng nghề đi rừng, ngày ngày lên núi hạ cây bán cho người ta.
Một lần con trâu kéo gỗ bị sa xuống hố, Cảo thay trâu xoay vần thế nào mà tự mình đem được cả cây gỗ lim lớn xuống núi, từ đó tiếng đồn về sức khoẻ của Cảo lan khắp nơi. Có người khuyên Cảo đi thi tuyển Đô lực sĩ, có khi trúng Trạng nguyên võ, Cảo nói: “Ta một là làm vua để mọi người bám theo ta, hai hoặc là làm thợ sơn tràng bám theo đít trâu; quyết không vác dù vác kích đánh xe ngựa hầu ai!”. Lớn lên Cảo làm chức giám tại điện Thuần Mỹ ở kinh đô. Chức ấy có nhiều người và làm đủ mọi việc lặt vặt, riêng Cảo thì là “Xã đường thiêu hương quan”, chuyên việc thắp hương, đốt vàng mã.
Lúc ấy ở chợ Rãng thuộc Dưỡng Động bỗng xuất hiện một người lôi thôi rách rưới như ăn mày nhưng không xin xỏ ai bao giờ, y không cần ăn chỉ uống nước lã mà vẫn sống, lang thang hết chỗ này đến chỗ khác lảm nhảm nói những điều chẳng ai hiểu: “Trời vàng sắp tắt, trời đen hiện lên”, “Phương Đông có khí thiên tử”, “Ông đầu trọc Đế Thích giáng sinh ứng với điềm giời”, “Quỳnh Lâm sinh vương, Thuỷ Đường sinh thánh”. Khoảng một tuần thì không thấy dị nhân đó đâu nữa…
Cũng trong thời gian này Trần Cảo chán cái chức thiêu hương, bỏ về quê. Được ít tháng thì vùng Đông Triều, Thuỷ Đường bỗng xảy ra động đất, núi nứt toác ra lở xuống làm đổ nhà đổ cửa, chết rất nhiều người, những người may mắn sống sót thì không còn nhà cửa, tiền bạc, kéo nhau đi ăn xin đầy đường. Trần Cảo thấy vậy bèn đem thóc gạo trong nhà ra phát cho dân nên nhiều người mang ơn và rất cảm phục. Thấy nhiều người theo mình, dựa vào chuyện động đất và lựa theo lời của dị nhân, Cảo bèn lên chùa Quỳnh Lâm cạo trọc đầu, mặc áo đen vừa xưng là Đế Thích giáng sinh, vừa nhận mình là cháu năm đời của vua Trần Thái Tông và là ngoại thích của Quang Thục hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Cảo còn tung ra câu ca: “Đất trời chuyển rung, Đông A phục quốc” để thu phục lòng người. Các vị sư sãi và Phật tử ai cũng biết Đế Thích là vị chúa tể trên thiên đường nhưng dân gian lại chỉ biết ông này giỏi về môn đánh cờ, nên Cảo tìm một người chơi cờ cực giỏi tên là Đình Tá, đối đãi cực hậu để mình đi đâu người này theo đi đến đấy, vác lọng hầu mình chơi cờ. Cảo toàn chơi cờ ngoài nắng, trên lọng dùi một lỗ nhỏ cho ánh nắng đi qua và in một chấm nhỏ trên bàn cờ, cứ cái chấm ấy in vào đâu Cảo lại đi quân cờ đến đấy nên đánh ván nào cũng thắng. Vậy là từ các Phật tử đến bàn dân thiên hạ ai cũng tin Cảo là Đế Thích giáng sinh. Cả một vùng dọc hai bờ sông Bạch Đằng, tả ngạn thì Đông Triều, hữu ngạn thì Thuỷ Đường đều theo Cảo. Sau Đình Tá trở thành tướng của Cảo.
Dưới trướng Trần Cảo có con trai là Trần Thăng và Phan ất, Công Uẩn, Công Chinh, Đình Ngạn, Đình Nghệ, Đình Bảo, Đình Tá, Đoàn Bố, Thọ Sơn. Từ quân đến tướng ai cũng cạo trọc đầu xưng là quân nhà Phật.
Phan ất còn có tên là Đồng Lợi, người Chiêm Thành, vốn là gia nô của Trịnh Duy Đại; thấy Phan ất to lớn, khoẻ mạnh, vợ lẽ của Duy Đại rất thích liền thông dam với y, chuyện vỡ lở, ất phải bỏ trốn. ất đã to lớn, da dẻ lại đen xạm nên được gọi là Hắc Tượng tướng quân, nổi tiếng dũng mãnh và có tài đi bộ cả ngày giời không biết mệt. Công Uẩn, sư chùa Quỳnh Lâm, chính là người bày cho Trần Cảo lên chùa, cạo trọc đầu, mặc áo đen. Uẩn nói: “Tướng quân họ Trần. Chùa Quỳnh Lâm khởi tạo từ đời Lý, sau lại được vua Trần Anh Tông chọn làm thiền viện cho Pháp Loa thiền sư ngồi giảng kinh, làm vang danh cho thiền phái Trúc Lâm. Tướng quân muốn thành tướng nhà Phật như các vị La hán để cứu nhân độ thế thì chỉ có đến đấy mà thôi. Khi rỗi thì du ngoạn phong cảnh vì chùa chính là “thiên Nam đệ nhất danh lam”, lại có pho tượng là một trong tứ đại khí của nước ta, mà từ đây muốn tới chùa Vân Yên hay Báo Ân cũng gần…”. Theo Trần Cảo nổi loạn, Công Uẩn vẫn mặc áo cà sa, đeo tràng hạt và xưng là Hoà thượng…
Cù Khắc Xương lúc đó đang giữ vệ Thiên Bồng phong thanh biết chuyện liền bàn với Trần Công Vụ:
– Chúng ta xuất thân còn cao hơn Đăng Dung, sau mười năm bây giờ Đăng Dung đã là Phó tướng Tả đô đốc trấn thủ cả xứ Sơn Nam trong khi đó chúng ta cứ lẹt đẹt lận đận mãi. Chưa kể cái tội từ thời vua cũ, nếu vua Quang Thiệu hỏi đến cũng không tránh khỏi rắc rối. Nay Trần Cảo mua chuộc nhân tâm mưu toan phản nghịch là cơ hội để chúng ta lập công, ông thấy thế nào?
Khắc Xương nhắc lại chuyện từ thời vua cũ làm Công Vụ đang uống nước cũng phải phì cười. Năm ấy Cù Khắc Xương đang làm Đô chỉ huy sứ Hải Dương, Công Vụ là Phó Đô chỉ huy sứ. ở trấn có làng không hiểu tại sao đàn bà mấy chục người lấy chồng mà mãi chẳng có con, chuyện xôn xao đến cả huyện cả trấn. Một hôm Công Vụ dẫn tới ba thầy cúng thầy thuốc là Đỗ Thao, Tử Ký và Văn Vận. Sau vụ lập đàn cầu mưa ở Sơn Nam, Đỗ Thao bị triều đình thải hồi, Lê Toản bị điều đi nơi khác, Lê Quảng Độ có ý bao che cũng không được. Mạc Đăng Dung trở thành Tổng trấn Sơn Nam. Từ đó Đỗ Thao xưng là Tản Nhân cư sĩ, bỏ nhà cửa vợ con đi khắp nơi, gặp được Tử Ký và Văn Vận, nhanh chóng trở thành bộ ba tâm đầu ý hợp, lang thang đây đó, gặp chỗ nào có thể loè người được thì giở ba tấc lưỡi và mọi thủ thuật để lừa người ta. Thấy ở Hải Dương có làng đàn bà không có con, họ tới xem thế đất, thắp hương bấm quẻ rồi bảo là tại ma quỷ, phải xây đền thờ và mời thầy cúng, đồng cốt đến trừ tà ma. Khắc Xương và Công Vụ nghe theo, bèn thu tiền bạc, thóc lúa, gà rượu của dân chúng rồi rêu rao đàn bà ai không có con đến để Tử Ký, Văn Vận và Đỗ Thao chạy chữa. Mấy người mạnh dạn đến chữa, về chỉ một tháng sau đều có thai, nghe tin, đám đàn bà lâu có con lũ lượt kéo đến, không những làng nọ mà nhiều người tận Thăng Long, Kinh Bắc, Sơn Tây, thậm chí tận Thanh Hoa, Nghệ An cũng tìm đến. Lúc đầu chỉ Tử Ký, Văn Vận, Đỗ Thao đứng ra chữa, sau Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ học được cách cũng bỏ cả việc quân nhận chữa. Ai đến chữa cũng mang theo chín bọc cơm, cúng bái rồi thì thầy thuốc và con bệnh chia nhau ăn hết ăn hết cơm, con bệnh được đưa vào buồng kín, ở đấy thầy thuốc đốt lá bọc cơm làm thuốc cho con bệnh uống. Một lúc sau con bệnh ra về, sau đó nhiều người thụ thai. Tất nhiên cũng có người không thể thụ thai nhưng chẳng ai phàn nàn bởi thuốc chữa có thể hiệu nghiệm với người này mà không với người khác, đó là điều bình thường, hơn nữa không phải ai đến bọn họ đều nhận chữa cả, có người họ bắt mạch rồi từ chối!
Nhưng rồi chuyện vỡ lở. Có một người đến chữa ở Trần Công Vụ tố cáo rằng y cho chị ta uống nước hoà tro lá bọc cơm, uống vào tắc cổ không kêu không nói gì được mà người bỗng ham muốn rừng rực, thế là Công Vụ mặc sức giở trò. Chả trách mười người đến chữa thì bảy người thụ thai và cũng chả trách tại sao người ta lại đồn rằng Khắc Xương và Công Vụ chữa còn hay hơn cả Tử Ký, Văn Vận, Đỗ Thao, chẳng qua bởi Xương và Vụ là tướng võ nên khoẻ hơn, một ngày đêm có thể “chữa” được dăm người còn ba gã kia cố lắm ngày cũng chỉ được ba người rồi bở hơi tai! Bây giờ mới biết tại sao đám đàn bà con gái khi từ buồng bệnh đi ra mặt mũi ai cũng có vẻ khác thường, người như là xấu hổ, người lại như thể vừa được ăn một bữa ngon, nhưng hỏi thầy thợ chữa thế nào thì chẳng một ai hé răng! Và cũng bây giờ mới biết tại sao năm gã thầy lang thầy cúng khốn nạn ấy chỉ nhận chữa cho những ai trông được mắt chứ hạng đui què mẻ sứt thì chúng giả cách bắt mạch qua loa rồi từ chối thẳng cánh ngay từ đầu. Đúng là có cháy nhà mới ra mặt chuột.
Từ chuyện nọ sang chuyện kia, những người chồng khốn khổ mới thú nhận với vợ rằng hồi bé bị bệnh quai bị, không hiểu lây từ ai và lây cho ai mà trẻ con cả làng mắc bệnh, người ta bảo ai quai bị thì vô sinh!
Vỡ lở ra, người nhẫn nhục, người ngậm đắng nuốt cay nhưng cũng có người không chịu nổi, gia đình sinh ra lục đục, tan nát. Bọn Khắc Xương bị kiện lên tận triều đình, Đỗ Thao phải chạy đến nhờ cậy Lê Toản là người trong hoàng tộc, cả bọn mới thoát tội.
Nay Khắc Xương nhắc lại chuyện cũ làm Công Vụ không khỏi bật cười khi nhớ lại những trò dơi chuột của mình. Nhưng Khắc Xương bàn việc trừ diệt Trần Cảo để lập công thì Công Vụ nghe ngay.
Khắc Xương và Công Vụ chia làm hai đường kéo tới Đông Triều. Chưa đánh, quân Trần Cảo đã tan tác chạy hết vào rừng. Lúc ấy cũng đã chiều, Khắc Xương cho hạ trại để quân sĩ nghỉ ngơi, định sáng ra sẽ đốt rừng buộc bọn phiến loạn phải ra đầu hàng. Không ngờ đang đêm quân Trần Cảo từ trong núi kéo ra, không biết đông bao nhiêu mà cả dãy Đông Triều tiếng hò hét vang động như trời long đất lở, tên cuộn bùi nhùi lửa bắn như châu chấu vào lều trại. Trong chốc lát cả một vùng lửa cháy ngút trời, quân triều đình quẳng gươm giáo đeo cả lửa trên lưng trên đầu mà chạy. Quân Trần Cảo thừa thế truy kích, đến sáng thì đuổi tới Chí Linh. Quân Khắc Xương, Công Vụ qua được sông Kinh Thầy bấy giờ quân của Cảo mới chịu dừng.
Trần Cảo đứng trên đê nhìn quân khởi nghĩa, nói lớn: “Nhà Lê đã đến ngày tận số, vua thì vua quỷ vua lợn, anh em giết hại lẫn nhau, quan lại ô trọc, thuế khoá nặng nề, dân chúng lầm than khiến trời đất cũng tức giận mà núi rung đất lở. Sấm truyền “Đông A phục quốc”, nay đã đến lúc nhà Trần trở lại. Ta là Đế Thích giáng sinh, cháu năm đời của vua Trần Thái Tông, vậy nên xưng là Thiên ứng cho ứng với điềm trời. Tất cả hãy theo ta, ai có gươm có giáo thì dùng gươm giáo, ai không có thì nhổ răng bừa làm giáo lấy dao đi rừng làm gươm lấy đòn gánh đòn càn làm binh khí, cha gọi thêm con, anh gọi thêm em, vợ khuyên chồng, dọc đường gọi thêm bè bạn, dân chúng, thẳng tới Đông Kinh diệt hết bọn vua quan ô lại rồi vui cùng vui, phúc cùng hưởng. Từ đây qua sông là thẳng tới Nhĩ Hà, bên kia đã là Đông Kinh, anh em hãy tiến về Đông Kinh!”.
Nghĩa quân hò reo như sấm, vào rừng chặt bương làm bè vượt sông, lên bờ đội theo bè, rầm rập đổ về Gia Lâm. Dọc đường dân chúng nô nức đi theo, khi tới bờ Bắc sông Hồng quân đã đông tới hàng vạn, một vùng Hải Dương rạp xuống như cỏ gặp gió không thể nào chống cự nổi. Sự việc xảy ra vào tháng Ba năm Hồng Thuận thứ 8 (1516).
Sang tháng Tư, Trần Cảo đem quân ở Tiên Du, Quế Dương, Gia Lâm trấn Kinh Bắc đánh vào bến Bồ Đề. Nhà vua sai Lại Thúc Mậu đem quân qua sông. Thúc Mậu thắng được trận đầu, đến trận sau thua to, ba tướng là Phùng Trấn, Trịnh Khổng Chiêu, Trịnh Ngạc kẻ chết trận kẻ bị Cảo bắt giết. Thúc Mậu phải vứt hết mũ áo giả làm thường dân mới thoát chết.
Đó cũng chính là lúc Trịnh Duy Sản làm phản giết Tương Dực và Nguyễn Hoằng Dụ phóng hoả đốt phá kinh thành. Vua Chiêu Tông vừa được Duy Sản dựng lên ngôi đã vội tất tả dời về Tây Kinh, để Lê Quảng Độ thống lĩnh quân đội ở lại cùng với Trịnh Duy Sản và Nguyễn Hoằng Dụ giữ kinh thành. Trần Cảo sang sông, quân triều đình không chống nổi. Duy Sản chạy lên Sơn Tây cầu cứu con nuôi là Trần Chân. Hoằng Dụ xuôi thuyền theo sông Hồng chạy xuống Thiên Trường, Lý Nhân. Lê Quảng Độ, bị vây bốn mặt, thấy thân cô thế cô bèn xin hàng Trần Cảo.
Quân Trần Cảo chiếm được kinh thành, thừa thắng tiến xuống phía Nam thì bị Phó tướng Tả Đô đốc Tổng trấn Sơn Nam là Mạc Đăng Dung chặn lại ở gần Kim Bảng. Thấy địa thế bất lợi, một bên là sông, một bên là cánh đồng ngập nước, quân Đăng Dung lại sẵn sàng chiến đấu, Cảo cho lui quân, để Đình Ngạn, Đình Nghệ, Đình Bảo, Đình Tá ở lại chia nhau đóng quân làm bốn trại ở Cổ Lãm, Tốt Động, Chúc Động, Ninh Kiều, giữ mặt Nam rồi quay lại Đông Kinh để làm lễ đăng quang.
Trần Cảo xưng vua, đặt niên hiệu là Thiên ứng, lập con trưởng là Trần Thăng làm Thái tử, phong thưởng cho những người có công. Lê Quảng Độ trở thành đệ nhất công thần, được Cảo ban cho quốc tính, việc gì Cảo cũng hỏi đến Quảng Độ khiến Độ không khỏi so sánh với lúc còn hầu hạ bốn đời vua Lê. Một hôm Trần Cảo hỏi việc gì nên làm trước việc gì có thể làm sau để ngôi cao mau vững? Quảng Độ thưa:
– Nên cho ngay người làm đầu mục sang sứ Bắc quốc cầu phong để danh chính ngôn thuận, cùng lúc cho người phủ dụ dân chúng và cho quân mở rộng thế lực. Để mở rộng thế lực cần cho người đi Sơn Tây thu phục Trần Chân, Chân cùng họ với bệ hạ chắc nhanh chóng nghe theo. Mạn Đông, mạn Bắc đã vững, được Chân sẽ vững thêm mạn Tây, từ đó đánh xuống Sơn Nam diệt Đăng Dung, rồi đóng quân kiên cố ở Tam Điệp và chặn giữ các cửa sông. Được vậy thì từ Thanh Hoa trở vào muốn đánh lúc nào cũng được. Chẳng mấy chốc Tây Đô cũng về tay bệ hạ, cả giang sơn lại thuộc nhà Trần.
Trần Cảo vỗ tay:
– Thật là trời cho khanh về với trẫm! Khanh chính là Trương Lương, Gia Cát Lượng của trẫm!
Nhưng Trần Cảo vui mừng quá sớm. Mạn Tây, Thiết Sơn bá Trần Chân dù có họ hàng xa với Cảo nhưng không chịu theo Cảo, lại theo cha nuôi là Trịnh Duy Sản kéo quân từ Sơn Tây xuống đóng ở Hoàng Hoa. Trần Chân vốn là Đô lực sĩ, đỗ Trạng nguyên võ thời vua Tương Dực, dưới trướng có hai anh em Nguyễn Kính, Nguyễn áng cũng là những tướng võ. Từ lâu Trần Chân đã muốn về kinh đô nhưng không có cớ, nay thấy dịp tốt nên vừa hạ trại xong đã tiến đánh Trần Cảo. Cảo sai Hắc Tượng tướng quân Phan ất đem quân từ Thanh Oai lên đánh, hai bên gặp nhau ở bãi tập bắn. Phan ất thách đấu tay đôi. Trần Chân sai Nguyễn Kính ra đối địch, giữa chừng thấy Kính đuối sức Trần Chân sai Nguyễn áng ra tiếp sức. Một mình Phan ất đánh với cả hai mà không hề tỏ ra nao núng. Trần Chân nóng mắt quát hai tướng lui, tự mình địch với Hắc Tượng. Cả Trần Chân và Hắc Tượng đều sử dụng đại đao, những nhát chém va chạm nhau toé lửa. Đoàn Bố thấy chủ tướng khó thắng nổi Trần Chân liền vẫy quân ùa lên. Quân Sơn Tây cũng thúc trống giáp chiến. Hai bên đánh nhau từ xế trưa đến xẩm tối, quân Trần Chân dần dần núng thế phải lui về giữ trại Hoàng Hoa.
Mạn Nam, Nguyễn Hoằng Dụ cùng anh em Mạc Đăng Dung dựa vào sông Hồng, khi tiến đánh lên tận Thường Tín, khi thoái lui xuống giữ Lý Nhân và trại Cổ Lộng, hai lần phải theo thuyền chạy ra biển nhưng lại cũng hai lần đánh tan mấy trại địch. Đích thân Lê Quảng Độ một lần cầm quân đánh Đăng Dung, bị Mạc Quyết bắn ngã ngựa, tí nữa thì bắt sống được. Do vậy quân Trần Cảo không thể vượt qua được Sơn Nam để vào đánh Thanh Hoa.
Chính lúc đó, sau khi tổng động viên trai tráng tâm phúc ở ba phủ Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia, quân triều đình giương cờ “Huynh đệ chi binh” chia làm hai đường thuỷ bộ rầm rộ kéo ra Bắc. Quân ra tới Sơn Nam, Nguyễn Hoằng Dụ, Mạc Đăng Dung đón vua, cùng bàn việc thu hồi kinh sư. Để tăng khí thế ba quân, vua Chiêu Tông sai Hùng Quốc công Lê Nghĩa Chiêu làm bài hịch để dụ thiên hạ, lời lẽ hào sảng đến mức nghe đọc lần đầu ai cũng thấy sôi sục. Quân sĩ ai cũng thuộc lòng những câu như:
“Hỡi quan viên và trăm họ ở các xứ Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn
Nam, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Lạng Sơn, An Bang
Đã gội ơn ưu sủng của triều đình
Đều mang lòng trung cần của liệt sĩ
Trời không thể có hai mặt trời, dân không thể thờ hai vị vua, phải sáng suốt nhận chân điều đó
Làm tôi quý nhất một chữ trung, làm con quý nhất một chữ hiếu, chớ
manh tâm theo giúp đảng gian…”
Quân của Trịnh Duy Sản, Nguyễn Văn Lự, Nguyễn Hoàng Dụ thì oang oang đọc những câu sau:
Ngày 15 tháng này, xuất phát từ Tây Đô
Thống suất đệ tử chi binh trong ba phủ
Chiêu mộ dũng sĩ hào kiệt khắp bốn phương
Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản thống lĩnh ức vạn quân hùm sói,
từ các phủ Thiên Quan, ứng Thiên kéo ra
An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ chỉ huy muôn vạn đội cọp beo,
từ các phủ Thiên Trường, Lý Nhân xốc tới.
Chính dinh có Phú Bình hầu uy lực sấm rền sét nổ
Phó dinh thì Bình Hoà hầu thế quân thác đổ triều dâng.
Thấy quân triều đình đông và nghe tin các trại tiền phương ở Chương Mỹ, Thường Tín đầu hàng, Trần Cảo rút về giữ Hoàng thành. Quân triều tiến thẳng đến cửa Đại Hưng. Trong khi đó Mạc Đăng Dung qua sông Hồng ở mạn Sơn Nam, sang đánh Phố Hiến, Khoái Châu. Biết khó giữ nổi kinh đô, Trần Cảo sai Lê Quảng Độ ở lại giữ thành, nói dối rằng mình đi Đông Triều điều quân, rồi chạy đi Chí Linh không trở lại nữa. Quân triều đình vào Đông Kinh, bắt được Lê Quảng Độ giam lại chờ ngày xét xử rồi vượt sông Hồng truy kích. Phan ất bỏ ngựa, xuống bộ lội ruộng, luồn rừng, chỉ trong một ngày đêm mà chạy được từ Gia Lâm đến tận Đông Triều. Quân chia làm hai ngả: Trịnh Duy Sản bình định mạn Bắc Hải Dương, Trịnh Tuy bình định Kinh Bắc, trong khi đó Mạc Đăng Dung tiếp tục thu hồi đất đai mạn Nam Hải Dương. Tháng Tám năm ấy Phan ất bị bắt, đóng cũi đem về kinh chém.
Vua Chiêu Tông nghĩ Lê Quảng Độ vốn trong hoàng tộc, chiếu theo gia hệ thì còn là chú Chiêu Tông, lại thờ bốn đời vua không mắc lỗi gì, quan tước đến cực phẩm, lại có công đưa mình lên ngôi, chỉ bởi thân cô thế cô mà buộc lòng hàng giặc rồi đâm lao đành theo lao nên Chiêu Tông có ý tha, đày lên mạn ngược làm lao dịch. Các đại thần mỗi người một ý, Trịnh Duy Đại, Trịnh Duy Sản muốn giết, Nguyễn Văn Lự, Nguyễn Hoằng Dụ muốn tha. Đang phân vân thì nhận được biểu từ Sơn Tây của Thiết Sơn bá Trần Chân và từ Sơn Nam của Vũ Xuyên bá Mạc Đăng Dung. Biểu của Trần Chân viết:
“Thần tuy có họ hàng với Trần Cảo, y cũng có cho người dụ thần theo nhưng thần quyết không theo. Trước kia cũng quyết không theo Trần Tuân. Vì vậy thần run sợ ngõ hầu bệ hạ tra xét cho thần được yên dạ.
Thần vốn ở chốn quê mùa, cha mẹ mất sớm, nhận Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản làm nghĩa phụ, thường được dạy về đạo vua tôi, quyết theo điều phải, bày tỏ bệ hạ được biết.
Nay Lê Quảng Độ, tội ác đã lâu, đâu phải một sớm một chiều, mầm mống đã từ thời Đoan Khánh, Hồng Thuận. Lại là người trong hoàng tộc, làm quan đến cực phẩm mà giặc đến không đánh, cũng không biết tự sát mà giữ khí tiết, lại còn vẽ rắn thêm chân, nối giáo cho giặc. Kẻ không nghĩ đến hậu ân của quân phụ, đại nghĩa về cương thường, thật mang tội với trời đất, mang tội với tổ tông và thiên hạ, tội y không thể tha thứ được.”.
Biểu của Đăng Dung viết:
“Tam cương ngũ thường là rường cột chống đỡ trời đất, là cột đá yên vững nhân dân. Nếu nước mà không có điều đó, thì tuy là nước văn minh nhưng chính là loài cầm thú. Từ xưa đến nay chưa từng có ai bỏ các điều đó mà có thể đứng trong khoảng trời đất.
Nay Lê Quảng Độ nhờ phúc ấm tổ phụ, đội ơn triều đình thờ qua bốn triều, ngôi tới nhất phẩm mà vẫn đận đờ, chỉ toan nhòm ngó. Chiều vua thì đón đưa, chuyên chính thì múa may nhiều quẻ, tội ác chứa chất đã lâu.
Mấy năm nay giặc Cảo khởi binh, tiếm xưng vị hiệu. Thế mà Quảng Độ tham sống sợ chết, nhẫn nhục thờ kẻ thù, mượn danh vị đi lừa dỗ dân ngu cho giặc Cảo, làm đầu mục đi nước ngoài cầu phong cho giặc Cảo, hạnh kiểm như chó lợn, lòng dạ tựa muông thú. Thật mang tội với trời đất, tổ tông và thiên hạ, tội y không thể tha được.”.
Chiêu Tông còn ít tuổi không dám quyết, mới hỏi mẹ là Đoan Từ Hoàng Thái hậu. Thái hậu tuy không phải người Thuỷ Chú nhưng cũng họ Trịnh nên hỏi vua: ý Trịnh Duy Đại, Duy Sản, Trịnh Tuy định thế nào. Nhà vua thưa, ý họ là muốn giết. Thái hậu bảo: “Vậy thì cứ thế mà làm, không cần theo ý ai, còn phân vân gì nữa!”. Lê Quảng Độ bị giết. Văn Lự, Hoằng Dụ thấy nhà vua không nghe theo mình, có ý không vui.
Mạc Đăng Dung lại dâng sớ xin trị tội Lê Toản, Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ, Đỗ Thao, Tử Ký, Văn Vận. Sớ thuật lại những việc đám này làm ở Sơn Nam, Đông Triều như mê tín, dựng đặt tà thuyết, lừa lọc, dối trá, gian dâm làm lòng dân oán thán, chính là cái mầm gây ra phản loạn… Sớ viết:
“Nay quân nhân là Cù Khắc Xương ở làng Nhân Vũ huyện Thiên Thi và quân nhân là Trần Công Vụ ở làng Phạm Tùng huyện Gia Phúc, vốn là lính thường, cũng như dân vậy. Đáng lẽ phải noi theo đạo vua, đường vua và tuân theo lời dạy, lại giả xưng là Thiên Vũ, Thiên Bồng để dụ dỗ ngu dân. Mượn chùa thờ Phật làm chợ dối trá, mượn đền thờ thần làm ổ chứa gian. Thuật nghiền than làm thuốc, khiến già trẻ đua nhau, phép phun nước phi bùa, làm ngả nghiêng làng xóm.
Bọn yêu quái đã như vậy, các quan trên đáng phải bài trừ. Thế mà các quan này lại như bọn phàm phu, không hiểu lẽ phải. Lê Toản, Văn Vận mê tín điều xằng bậy, Tử Ký, Đỗ Thao phụ hoạ vào thuyết tà, cùng nhau theo tà đạo, mê đắm thói đòng cốt, lấy quái đản lừa nhau, lấy quỷ thần doạ nhau; răn gì bằng hình phạt, chữa gì bằng pháp luật, sao không cấm đoán nghiêm ngặt?”.
Vua Chiêu Tông lại phải đem hỏi các đại thần. Lần này Nguyễn Văn Lự, Nguyễn Hoằng Dụ bảo phải giết cho luật pháp được nghiêm, Trịnh Duy Đại, Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy lại bảo tha vì tội chưa đến mức phải giết. Nhà vua đem hai ý kiến hỏi mẹ. Thái hậu nổi giận: “ Lần nào Văn Lự, Hoằng Dụ cũng làm khác ý Duy Đại, Duy Sản là thế nào? Vậy thì hãy tha bọn ấy cho Lự với Dụ biết lần sau đừng có ý khác!”. Duy Sản thấy Thái hậu nói vậy, sợ bọn chúng được tha thật nên đang đêm vào tâu Thái hậu: Thực ra bọn ấy đáng tội chết, bề ngoài bảo tha cốt tỏ ra xem thường ý đám Văn Lự, Hoằng Dụ, thực ra thì phải cho chúng chết! Thái hậu nói: “Rắc rối quá! Các người thấy thế nào đúng thì làm, việc nhỏ như vậy từ nay đừng phiền đến gái già này nữa!”. Bọn Lê Toản, Khắc Xương, Công Vụ, Tử Ký, Văn Vận, Đỗ Thao được một bữa cơm rượu say rồi được phóng thích. Chục ngày sau không đứa nào là không đau bụng nôn ra máu, kẻ chết trước kẻ chết sau chỉ cách nhau vài ba ngày. Riêng Đỗ Thao đoán trước sự việc nên không ăn uống gì bữa ấy do vậy thoát chết nhưng phải trốn biệt tăm biệt tích.
Đoan Từ Hoàng Thái hậu khen: Trần Chân, Đăng Dung tuy chỉ là võ tướng mà nói gì cũng phải, Đăng Dung còn thông hiểu sách thánh hiền, thật là kẻ trung trực, sâu sắc.
Các quan đại thần như Hà Văn Chính, Lê Đại Đổ, Đỗ Nhạc, Nguyễn Dự dâng biểu xin phục hồi đế hiệu cho Mẫn Lệ công Lê Tuấn. Nhà vua bỗng bưng mặt khóc:
– Hồi Oánh làm phản, Mẫn Lệ công không tra xét gì cả đã giết cha ta và các chú của ta. Nay ta lại phục hồi đế hiệu cho ông ấy liệu có phải không?
Duy Đại, Duy Sản và các quan đều nói việc ấy suy cho cùng đều do Lê Oánh giả xưng là Cẩm Giang vương gây ra cả. Nhà vua thở dài, thuận việc phục hồi và truy tôn vua Đoan Khánh làm Uy Mục đế, cấm từ nay không ai được gọi là Mẫn Lệ công.
*
Thấy lâu nay đám họ Trịnh cố tình đối mặt, Nguyễn Văn Lự buồn bực nói với cha con Hoằng Dụ, Nguyễn Kim:
– Họ Nguyễn Tống Sơn ta với họ Trịnh Thủy Chú vốn chẳng có gì mâu thuẫn, lại cùng nhau hai lần dựng vua mới. Từ hồi Hồng Thuận lên ngôi, vì mẹ Hồng Thuận là người họ Trịnh nên đám Thuỷ Chú bắt đầu đắc ý. Tuy nhiên lúc đó công đầu phò giúp Hồng Thuận là Nghĩa Quốc công người họ ta nên chúng còn chưa dám ra mặt. Đến bây giờ Quang Thiệu lên ngôi, mẹ Quang Thiệu lại cũng người họ Trịnh nên đám ấy ra mặt công thần, chèn ép chúng ta! Đã bực, lại buồn vì không có cách nào tỏ được tấm lòng trung với triều đình mà Hoàng thượng thì nhỏ tuổi, chỉ biết nghe theo bọn họ và Thái hậu!
Lúc này Nguyễn Kim mới kể chuyện hồi được sai đuổi theo Duy Đại để đưa Quang Trị trở kinh. Bọn Duy Đại, Trịnh Tuy và cha con Nguyễn Trinh, Nguyễn Tùng ăn nói tỏ ra coi thường triều đình và có ý làm phản.
– Sao bây giờ cháu mới nói? – Văn Lự bảo.
– Thưa ông, – Nguyễn Kim nói – cháu nghĩ người ta luôn luôn có ba cách để ứng xử với thời thế, phép dụng binh cũng vậy. Cách thứ nhất ứng với Tam thập lục kế, là kế “rút củi đáy nồi”, nhưng cách này xưa nay không phải là cách của nhà ta vì nó bị xem là thói xu thời, nhún mình cầu an của kẻ tiểu nhân. Cách thứ hai là kế “biết rõ làm ngơ” chịu khổ nhục một thời gian rồi sau sẽ liệu, cách này cháu e ông với cha cháu cũng không theo được.
Hoằng Dụ nổi giận mắng con:
– Có lẽ mày định khuyên chúng ta theo cách thứ ba, “tẩu vi thượng sách”, “ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”, bỏ lại tất cả, về Tống Sơn khoanh tay ngồi yên để mặc đám họ Trịnh làm gì thì làm chăng?
Nguyễn Kim thưa:
– Cách thứ ba con định nói là kế “đi trước một bước”, nếu thấy đối phương có ý diệt mình thì mình hãy ra tay trước.
Nguyễn Văn Lự bảo:
– Gia đình ta ăn lộc nhà Lê đến năm, sáu đời vua, triều đình lại đang lúc rối ren chả nhẽ lại làm rối ren thêm hay sao?
Nguyễn Kim nghĩ rồi nói:
– Vậy thì chọn cách “một mũi tên trúng hai đích” vậy.
– Cách ấy là thế nào?
– Nay dư đảng Trần Cảo vẫn còn nhiều lắm nhưng đã bị xé lẻ chứ không còn được như trước. Hiện chúng tập trung thành hai đám, đám lớn ở Đông Triều do chính Cảo cầm đầu, đám nhỏ tụ lại ở cánh đồng tam thiên mẫu trấn Hải Dương do anh em Đình Ngạn cầm đầu. Nay ta tâu vua treo thưởng cho ai bắt được Cảo. Duy Sản hám danh và cậy khoẻ vậy ta nhường cho hắn đi đánh đám lớn mà bắt Cảo để lập công to. Chúng ta chỉ nên triệt hạ đám nhỏ. Sản có thể diệt được Cảo nhưng chắc chắn sẽ hao binh tổn tướng, lực lượng sẽ yếu đi; đã vậy Sản lại thích mặc áo đỏ cưỡi ngựa trắng ra trận, ta tung chuyện đó cho bọn Cảo biết, có khi Sản vì vậy mà bỏ mạng cũng nên. Như đời Tam quốc, Bàng Thống từng chết oan ở gò Lạc Phượng vì đi cưỡi con ngựa trắng của Lưu Bị. Sản mà chết thì anh hắn là Duy Đại ta đối xử dễ thôi.
Văn Lự và Hoằng Dụ nghe theo. Hôm sau lâm triều, Văn Lự tâu: Hiện tàn dư Trần Cảo vẫn chưa diệt được tận gốc, vẫn còn rải rác khắp vùng Hải Đông và tụ tập thành hai đám, vậy nên chia quân đi đánh dẹp và treo thưởng cho ai bắt được cha con Trần Cảo.
Hoằng Dụ nói mình binh lực kém cỏi nên xin được đi đánh dư đảng giặc ở Hải Dương. Duy Sản đắc ý bảo Hoằng Dụ: “Phen này ta lấy được đầu Trần Cảo và được Hoàng thượng ban thưởng thì ngươi đừng có so bì gì nhé” và tình nguyện đánh Đông Triều. Chiêu Tông cho Minh Vũ hầu Trịnh Hồng, Quảng Phúc bá Nguyễn Khắc Nhượng, Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy theo giúp Duy Sản. Hoằng Dụ xin được anh em Mạc Đăng Dung giúp sức.
Hoằng Dụ hẹn với Mạc Đăng Dung, người từ mạn Bắc đánh xuống, người từ mạn Đông Nam đánh lên. Sau mười ngày cùng vây được họ Đình ở một đồng lầy toàn lau sậy rậm rạp. Đây chính là đầm Dạ Trạch hay còn gọi là bãi Màn Trò ngày xưa Triệu Việt vương dựng nghiệp nhưng trải qua gần một nghìn năm nay đã hẹp rất nhiều. Lúc bấy giờ đang mùa đông hanh heo, lau sậy nhiều chỗ khô héo nên Hoằng Dụ định phóng hoả cho quân giặc chết cháy. Đăng Dung can không nên làm như vậy, xưa Khổng Minh vì thiêu chết quân Man trong cuộc Nam chinh bắt Mạnh Hoạch mà nghĩ rằng sau này thể nào mình cũng tổn thọ, về sau đúng như vậy.
Thuộc tướng của Đăng Dung là Vũ Hộ bàn nên phao tin quân triều đình đã giết được Trần Cảo để giặc hoang mang rồi cho quân tinh nhuệ luồn sâu vào sào huyệt giặc, để trong đánh ra ngoài đánh vào, tất thắng. Hoằng Dụ nghe theo, cho Nguyễn Kim đi cùng Đăng Dung. Họ chọn trong đám lính hai trăm người khoẻ mạnh, bơi lội giỏi, tất cả đều mang đao ngắn, mộc và thật nhiều cung tên theo thuyền nhỏ lặng lẽ tiến vào bãi. Bãi chỗ nước nông nước sâu, chỗ nổi lên những gò đất, chỗ lau sậy san sát chỗ lại trơ ra một vùng nước trắng xoá. Đăng Dung và Nguyễn Kim chọn một bãi đất khá lớn và dừng thuyền, gióng trống dụ địch. Một lúc sau giặc từ bốn xung quanh đẩy thuyền ra. Đình Ngạn nói:
– Thật tự dưng chúng bay dẫn xác tới đây nhá, đừng có trách chúng ta đối đãi không tử tế!
Đăng Dung làm giả cái đầu người bằng đất sét, tô phẩm chỗ đen chỗ đỏ, bây giờ mới giơ cao lên:
– Bọn ta đã lấy được đầu Trần Cảo, các ngươi muốn theo y thì đến đây.
Đình Ngạn, Đình Nghệ nhìn cái đầu, nửa tin nửa ngờ. Mặc dù vậy chúng vẫn thúc quân tiến lên, vừa đẩy thuyền tới bãi vừa nhất loạt bắn tên. Quân triều đình đưa mộc đỡ được hết. Tên cắm vào mộc vào thuyền tua tủa như lông nhím! Chờ giặc đến vừa tầm tên Đăng Dung hạ lệnh bắn trả, giặc ít kẻ có mộc nên ngã xuống nước ào ào. Đình Ngạn, Đình Nghệ khua giáo đỡ tên nên không bị sao. Giặc xáp thuyền lại gần, đổ quân lên bãi. Cuộc chiến giáp là cà thật dữ dội. Anh em Mạc Đăng Dung và Nguyễn Kim đều rất dũng mãnh, một người đánh nổi mười người nên giặc dần núng thế, Đình Ngạn bị đăng Dung chém đầu rơi xuống nước, Đình Nghệ bị Nguyễn Kim đâm lòi ruột, Đình Bảo bỏ chạy bị Mạc Quyết đuổi theo đâm trúng vai, may được Đoàn Bố cứu thoát. Vũ Hộ bắn theo, tên trúng lưng Đoàn Bố. Đăng Dung cho nổ ba tiếng pháo, Hoằng Dụ thúc đại quân nhất loạt tiến vào bãi, cờ trống rung chuyển cả một vùng. Giặc nhiều tên bỏ thuyền nhảy xuống nước trốn, quân triều đình ngậm đao ở mồm bơi đuổi theo, vật lộn đánh nhau với chúng dưới nước, mặt nước ngầu máu đỏ.
Trong khi ấy Trịnh Duy Sản đánh Trần Cảo ở Đông Triều mãi không được vì vùng ấy núi non trùng điệp, Cảo lại chọn làm sào huyệt nên đã cho xây dựng một số thành quách và tích luỹ lương thảo rất nhiều. Cứ thấy bất lợi chúng lại chạy lên rừng, ngày trốn đêm ra đánh khiến quân của Sản nhiều phen thất điên bát đảo. Mặc dù vậy, cuối cùng quan quân cũng dồn và vây được Trần Cảo ở chùa Sùng Nghiêm trên sườn núi Trâu Sơn thuộc Chí Linh. Thấy quân sĩ mệt mỏi, Sản làm một bài văn để động viên họ. Bài văn dài gần trăm câu ấy hùng hồn, thống thiết, tướng sĩ nghe ai cũng sôi sục:
Nay khuyên các tướng sĩ:
Tiết tháo phải như tùng như trúc
Can trường phải là thép là gang
Công phu ta đắp đường đắp non cao, non đã cao, chỉ cần sọt đất
Sự nghiệp ta khác chi đào giếng, giếng đã sâu, gần chạm mạch ngầm
Chớ sợ nhát mà bỏ dở chừng
Nên cố gắng để giành hậu quả…
Chùa Sùng Nghiêm ở núi Miết ngày trước vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia đã từng trụ trì. Phong cảnh đẹp nhưng đường lên hiểm trở, xung quanh hoang vắng. Vào đời vua Lê Thánh Tông, Tao Đàn phó nguyên suý là Thái Thuận đã lên đây và có thơ, đại ý: Ngoài bìa rừng chỉ nghe thấy tiếng quạ kêu, núi non trập trùng, nhà chùa vắng vẻ không tiếng đàn tiếng sáo, muôn vật như ngủ hết!
Có thơ văn động viên nhưng quân sĩ đánh mãi vẫn không thắng được giặc, dần dần trở nên lơi lỏng, nhiều người xuống núi, vào các làng xóm xung quanh cướp bóc, bắt đàn bà con gái đem lên rừng hãm hiếp, Duy Sản phải xử chém mấy người, lúc bấy giờ mới giữ được kỷ cương. Một hôm khắp rừng bỗng quân của Cảo hò reo, thúc trống vang lừng, chỗ nào cũng thấy cờ có chữ “Trần”. Duy Sản không biết giặc nhiều hay ít liền sai lính đi thăm dò. Chúng đi, một lúc sau mấy tên hốt hoảng về báo gặp phải phục binh của giặc nên bị chết gần hết, may chúng chạy thoát được. Duy Sản nổi giận, tự mình đi đầu thúc quân giáp chiến. Rừng rậm khó nhận ai là ai nên quân sĩ cứ thấy bóng chiếc áo đỏ của Sản mà đi theo. Quân của Cảo bỏ chạy. Thấy phía trước lúc ẩn lúc hiện lá cờ mang chữ “Trần” và mấy bóng người mặc áo đen, đoán là Trần Cảo và mấy tên lính cận vệ cuả hắn, Duy Sản thúc quân đuổi gấp. Được một lúc thì không thấy cả người lẫn cờ đâu. Sản đang ngơ ngác thì một tiếng pháo nổ vang, từ sau những bụi cây địch đổ ra đông như kiến, tên nào cũng đầu trọc, áo đen, vây chặt Sản và mấy chục quân triều đình vào giữa. Trần Cảo cười:
– Thằng Sản kia! Nội gián của ta bảo hễ thấy ai mặc áo đỏ thì đấy chính là Duy Sản. Thật không sai!
Dứt lời Cảo giương cung bắn, Duy Sản né người tránh được. Ngay đó khắp bốn xung quanh tên bắn tới như châu chấu, Sản không thể nào tránh xuể, bị liền mấy mũi, ngã ngựa, quân của Cảo ào đến bắt. Tì tướng Nguyễn Thượng vội tới cứu Sản, bị sa xuống hố, cũng bị bắt nốt. Trịnh Hồng, Trịnh Tuy, Nguyễn Khắc Nhượng thấy chủ tướng bị bắt, mỗi người một ngả chạy hết xuống núi. Trần Cảo hạ lệnh giải Duy Sản lên chùa. Cảo ngồi khoanh chân trên chiếc sập kê trước đỉnh hương lớn giữa sân, đứng sau là Đình Tá, Công Uẩn. Lính của Cảo ấn đầu Sản xuống:
– Trước Thiên ứng đại vương Đế Thích giáng sinh sao không quỳ?
– Ta không biết quỳ!- Sản đáp.
Cảo bảo:
– Nguyên Quận công là dũng tướng ở đời, không phải quỳ! – Và nói với Sản – Nay ta định thu nạp ngươi làm tướng của ta, như đã thu nạp Lê Quảng Độ trước đây, ngươi thấy thế nào?
– Ta tưởng sẽ lấy được đầu ngươi mang về lĩnh thưởng, nào ngờ mắc phải quỷ kế. Ta thà chết chứ không thể như thằng chó Quảng Độ.
– Khá lắm! Trước khi chết ngươi còn muốn hỏi muốn nói gì không?
Duy Sản nghĩ rồi bảo:
– Ta muốn hỏi hai câu nhưng ngươi phải nói thật, vì dẫu ngươi có nói thật hay dối trá thì ta nghe xong cũng không thể làm gì được. Câu thứ nhất: Hoằng Dụ đánh ở Dạ Trạch thắng hay thua? Câu thứ hai: Nội gián của ngươi là ai mà mách cho ngươi biết ta mặc áo đỏ?
Trần Cảo nghĩ phải làm cho Sản trước khi chết còn cay đắng, đau đớn nên nói:
– Vừa hay! Nếu đao phủ của ta ra tay sớm thì ngươi dù dưới ba thước đất cũng áy náy không yên. Nghe đây: Hoằng Dụ đã bị Đình Ngạn, Đình Bá chém đầu, thây cho cá rỉa; còn nội gián của ta chính là Trần Chân, con nuôi ngươi!
Duy Sản chưa kịp hả dạ thì đã tê tái lòng dạ, y rú lên, không kịp tin hay không tin lời Cảo đã thổ ra huyết và gục xuống. Đao phủ kéo lê Sản và đưa tì tướng của y là Nguyễn Thượng đem đi chém ở đồi thông núi Vạn Kiếp.
Quân Trần Cảo lại một lần nữa tràn xuống tận Gia Lâm và mấy lần đánh thẳng vào bến Bồ Đề. Sau Trần Chân sang sông đánh rát một trận, Cảo mới chịu lui, rút sang bên kia sông Như Nguyệt, từ đó hai bên cầm cự nhau bất phân thắng bại hàng tháng trời.
Trịnh Duy Sản không còn nữa, theo kế của Nguyễn Kim, Nguyễn Văn Lự bèn sang phủ Trịnh Duy Đại chia buồn và nói:
– Nguyên Quận công là dũng tướng hiếm có trên đời. Nhưng lâu nay hai họ chúng ta bất hoà một phần cũng bởi Nguyên Quận công quá cứng rắn, câu nệ. Hiện triều đình như chiếc cổng tam quan sau bão đang cần chống đỡ, hai họ chúng ta chính là hai chiếc cột cái vậy. Một chiếc đổ, chiếc kia phỏng có giữ nổi cổng không? Vậy thiết nghĩ chúng ta nên cùng nhau đến trước vua tâu thề thật sự hoà giải mâu thuẫn cho thiên hạ khỏi những điều dị nghị và triều đình nhờ thế được yên.
Trịnh Duy Đại thấy phải liền cùng Nguyễn Văn Lự vào triều. Đến nơi thì thấy cha con Phò mã Nguyễn Trinh, Nguyễn Tùng cũng ở đấy, mặt mũi ai cũng xám ngoét; lại có cả Hoằng Dụ và Nguyễn Kim. Sực nhớ tới hôm cùng uống rượu với Nguyễn Kim ở gần Tam Điệp, Duy Đại mới biết mình bị Văn Lự lừa đến đây nên định chạy thì bị võ sĩ giữ lại. Văn Lự rút từ tay áo ra tờ mật chiếu nói rằng Duy Đại đã đưa Quang Trị lên ngôi, lại vô cớ giết đi; sau đó bàn với Trịnh Tuy, Nguyễn Trinh muốn đem Nguyễn Tùng lập làm nguỵ chủ, định làm việc đại nghịch, chuyện có An Thanh hầu Nguyễn Kim chứng kiến. Mật chiếu cũng kể tội cha con Nguyễn Trinh mưu toan bạo phản.
Duy Đại bị tống ngục cùng với cha con Nguyễn Trinh, chờ bắt được Trịnh Tuy thì chém đầu cả thể. Sau do không bắt được Tuy nên Duy Đại và đồng bọn bị đem đi chém.
Trịnh Tuy lúc đó đang ở Kinh Bắc, nghe tin Duy Đại bị bắt liền đem toàn bộ binh mã kép về kinh đô, ngay đêm ấy, tiến đánh Nguyễn phủ. Họ Nguyễn không rõ quân Trịnh nhiều ít thế nào nên cố thủ chờ đến sáng. Sáng ra Văn Lự nổ ba tiếng pháo, tung hết lực lượng trong phủ đánh ra; Nguyễn Kim đóng quân cách đấy hai dặm, nghe thấy tiếng pháo kéo quân đánh tới. Trịnh Tuy rút về Trịnh phủ, hôm sau làm ma cho Duy Đại.
Hai bên ngưng chiến được mấy ngày.
Một hôm trời đã sáng mà không thấy Nguyễn Văn Lự dậy. Người nhà tới tận giường xem thì thấy Lự đã chết tím tái, cái chết như bị đầu độc. Hoằng Dụ phải lo ma chay cho chú nên dân chúng kinh đô được yên thêm mấy ngày nữa.
Cho đến một hôm Hoằng Dụ và Trịnh Tuy cãi nhau ngay lúc thiết triều, không ai kể cả nhà vua và Thái hậu can nổi. Cả hai không chờ lệnh bãi triều cùng bỏ ra về. Người của hai nhà chờ đón chủ ở cửa Đại Hưng đã lườm nguýt nhau sẵn, thấy hai ông chủ vừa đi vừa xỉa xói nhau, liền xông vào nhau. Bên Hoằng Dụ thì Cù Tuấn, Cù Tú, bên Trịnh Tuy thì Đàm Cử, Nguyễn Thọ, hai bên gươm giáo đâm chém quyết liệt. Đến trưa, Hoằng Dụ huy động mấy nghìn quân bản bộ tấn công, phóng hoả đốt Trịnh phủ. Bị bất ngờ, đám họ Trịnh tan tác mỗi người một nơi. Trịnh Tuy chạy thoát về Lôi Dương, Thanh Hoa.
Vũ Quỳnh đã dừng cuốn sử của mình ở triều vua Uy Mục nên đặt tên cho sách là Tứ triều bản kỷ nhưng vẫn ghi chép những chuyện tiếp diễn, đêm ấy thức trắng đứng nhìn mãi lửa thiêu Trịnh phủ rồi gần sáng ngồi viết: “Giặc bên ngoài chưa yên, các quyền thần đánh lẫn nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, máu dây đầy chốn kinh sư, mặt trời vàng tối, vận nước ngày một suy!”.
Đuổi đám họ Trịnh rồi, Nguyễn Hoằng Dụ vào cung vua tâu bày sự việc, xin nhà vua ra chỉ xuất quân diệt hết nhà họ Trịnh. Vua bảo:
– Để trẫm hỏi Thái hậu đã.
Hoằng Dụ về bảo Nguyễn Kim:
– Nay Trịnh Tuy đã tháo chạy được về Thuỷ Chú. Con nên về ngay Gia Miêu lo giữ lấy quê cha đất tổ. Mọi việc ở đây ta lo. Có chăng chỉ cần đề phòng Trần Chân là con nuôi Duy Sản thôi.
Nguyễn Kim nói:
– Trần Chân liều lĩnh, tính tình khi mưa khi nắng, làm gì ít khi tính toán trước sau, chỉ cậy khoẻ. Người như thế không khôn nhưng đối phương khó đoán được những việc sẽ làm. Dưới trướng y lại có mấy kẻ đáng lo.
– Những kẻ nào?
– Chân có các tướng tâm phúc là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn áng, Nguyễn Hiêu, Cao Xuân Thìn. Đáng nói nhất là Kính và áng. Chúng tuy trẻ nhưng đều đáng gọi là dũng tướng. Hồi đầu làm loạn, Cảo có cho người mời Trần Chân ứng nghĩa nhưng Chân không theo. Cảo bực lắm mang quân đi đánh Chân. Kính, áng bèn tụ tập con em theo Chân đánh lại Cảo, Cảo phải thua. Từ đó hai anh em nhà họ được Chân cho làm tì tướng.
– Bọn tì tướng thì đáng kể gì!
– Nhưng hai người ấy, nói chung là cả đám Sơn Tây lại không đáng ngại bằng một người khác.
– Lại ai nữa? – Hoằng Dụ hỏi.
– Thưa cha, đó là Mạc Đăng Dung. Hồi vây đánh dư đảng giặc Cảo ở Dạ Trạch, nhân rỗi rãi, con mới theo cách của Tào Tháo hỏi Lưu Bị trong bữa rượu, mà thăm dò Đăng Dung: “Theo ông, thiên hạ hiện nay ai thật xứng đáng được gọi là anh hùng?”. Dung bảo: “Độ ba bốn người. Trước hết, đó chính là Phú Bình hầu, ông chú của tướng quân và An Hoà hầu, thân phụ của tướng quân. Thứ đến Trịnh Duy Sản. Thứ ba, Trần Chân ở Sơn Tây. Cảo tuy là giặc nhưng cũng đáng gọi là anh hùng.”. Hồi ấy Phú Bình hầu và Duy Sản vẫn còn. Con bảo: “Phú Bình hầu và cha tôi tuổi đều đã cao. Duy Sản cũng không còn trẻ nữa vả lại tính tình ngông ngạo nên dễ bị kích động mà sa bẫy của kẻ khác. Cảo thì trước sau cũng bị diệt. Những người trẻ tuổi chả nhẽ chỉ có Trần Chân thôi sao?”. Đăng Dung hỏi vậy theo con là những ai? Con đáp: “Sau này, anh hùng trong thiên hạ chỉ có tôi và ông thôi!”.
Hoằng Dụ bật cười:
– Đăng Dung giật mình và đánh rơi đũa rồi giả tảng bảo tại tiếng sét to quá chăng?
– Thưa cha, con nhìn thẳng vào Đăng Dung. Y không lộ vẻ gì khác thường, chỉ cười, bảo: “Tướng quân làm tôi nhớ đến câu của Tào Tháo hỏi Lưu Bị trong bữa tửu luận anh hùng! Tôi là kẻ quê mùa, được đến thế này đã là vinh lắm rồi, nào dám cao vọng gì! Gia đình tướng quân là danh gia vọng tộc, mấy đời có người làm đại thần trong triều, sau này anh hùng trong thiên hạ chỉ có tướng quân thôi!”. Thưa cha, y thật là đi guốc trong bụng người ta! Nhưng con không tin Đăng Dung không có cao vọng, chẳng qua y chưa gặp thời mà thôi. Đăng Dung mặt vuông, con mắt tròn, người to lớn, tướng ấy là tướng không chịu dưới một ai!
Hoằng Dụ bảo:
– Con nói đúng, thời thế tạo anh hùng. Nhưng thời thế cũng triệt diệt anh hùng. Thời thế đã tạo nên Hạng Võ nhưng thời thế cũng buộc Hạng Võ phải chết. Mấy năm nay ai bằng Trịnh Duy Sản? Vậy mà lại chết bởi tên vô lại Trần Cảo! Khi cứng khi mềm, khi tiến khi thoái, chớ quá quan trọng việc lớn cũng đừng xem thường việc nhỏ, đó là phép làm người trong thời buổi loạn lạc. Lại nữa, việc gì cần làm trước thì làm trước, việc gì chưa cần thì để lại sau vì không thể ôm đồm mọi việc trong cùng một lúc. Bây giờ nên lo chuyện Trịnh Tuy và Trần Chân, chuyện Mạc Đăng Dung để sau.
Ngay đó có tin cấp báo: Trần Chân đang kéo quân Sơn Tây về đòi trả thù cho Duy Đại và Trịnh Tuy. Cù Tuấn bị Nguyễn Kính đâm lòi ruột, vừa chạy vừa ôm bụng nhưng vì mất máu nhiều quá nên tới làng Vòng thì chết. Cù Tú bị Nguyễn áng bắn trúng lưng, cố sống cố chết đeo tên chạy được sang bên này sông Tô Lịch nhưng rồi kiệt sức cũng đã chết. Tướng của triều đình là Nguyễn Dư Hoan ngăn giặc không nổi phải chạy về kinh thành, lo giữ cửa Đại Hưng.
Người đưa tin này vừa quay ra, người khác đã cấp báo Trần Chân đang xuôi sông Hồng, chiến thuyền đã tới ngang bến đò Chèm. Nguyễn Kim thưa:
– Cứ như cha nói thì lúc này chính là lúc nên mềm, nên thoái. Vì thế ta nên rút về Tây Đô để bảo toàn lực lượng.
Hoằng Dụ gật đầu:
– Con nói rất hợp ý ta. Nhưng chúng ta sẽ không về Tây Đô một mình mà phải đem vua theo.
Đích thân Hoằng Dụ cùng mươi người lính đến điện Kim Quang để đón Chiêu Tông nhưng không tìm thấy nhà vua đâu nên theo cửa Đông để ra bến Thái Cực gấp. Thuyền vừa rời bến, nhìn lên thượng lưu, thấy thuyền quân Sơn Tây đã lấp ló, biết rằng chạy cũng không kịp, Hoằng Dụ bảo Nguyễn Kim cùng ba chục thuyền quay lại chặn địch.
Nguyễn Kim lệnh cho thuyền hạ hết buồm, chiếc nọ kề chiếc kia chắn ngang sông, quân sĩ cung nỏ sẵn sàng, rồi ra đứng ở mũi soái thuyền.
Trần Chân cũng cho thuyền dàn hàng ngang, xuôi dòng nên thuyền trôi băng băng. Hai bên sắp giáp nhau mà Nguyễn Kim vẫn tỏ ra không hề sợ hãi. Trần Chân đặt tên lên cung nhằm vào Nguyễn Kim, chưa kịp bắn thì quân Nguyễn Kim đã nhất loạt phóng tên quấn bùi nhùi lửa về phía thuyền Sơn Tây, chỉ trong chớp mắt lửa bùng lên khắp chỗ: trên những cánh buồm, trên mui, hai bên mạn. Quân Sơn Tây la hét, một số ùm ùm nhảy xuống sông. Nhân lúc đối phương hoảng loạn, Nguyễn Kim ra lệnh giương buồm, chiếc nào chiếc ấy no gió xuôi về phía cửa sông.
Ra đến biển, Nguyễn Kim rất mừng khi thấy phía trước là đoàn thuyền của cha mình. Hoằng Dụ còn mừng hơn nữa khi thấy con đã qua được cửa Ba Lạt. Biển trời mênh mông, thuỷ chiến trên biển là sở trường của quân Thanh Hoa. Đang lúc gió Bấc nên chẳng mấy lúc cha con Hoằng Dụ đã tới ngang cửa sông Đáy.
Quay lại, Nguyễn Kim ngạc nhiên khi thấy một đoàn thuyền lạ đang đuổi theo và cũng đã ra khỏi cửa sông. Cách chạy thuyền không phải là cách của quân Sơn Tây.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.