(về bài thơ MẠN THUẬT (số 4) của Nguyễn Trãi)
Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay
Nước mấy trăm thu còn vậy
Nguyệt bao nhiêu kiếp vẫn rày
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay!
Sau thảm hoạ tru di xảy ra năm 1442, thơ văn của đại công thần khai quốc triều Hậu Lê là Tiên sinh Nguyễn Trãi, phần lớn thất lạc. Mãi đến thời vua Lê Thánh Tông trị vì, thơ văn của Nguyễn Trãi bị thất tán, lưu lạc, vùi lấp lạnh lẽo đâu đó trong dân gian, mới được người đời tìm kiếm và tập hợp lại, thành “Quốc âm thi tập”, khoảng hơn 250 bài. Người ta tiến hành phân loại, sắp xếp vào các chủ đề, các mục…cho dễ tìm hiểu. Một bài thơ lục ngôn bát cú, xen hai câu cuối thất ngôn, có tên là Mạn thuật-Bài số 4, thơ Nôm, là một bài thơ được nhiều người nhắc tới. Đương nhiên, đó là một bài thơ hay. Chẳng những hay ở ý tình thăm thẳm, mà còn lạ ở cấu trúc hình thức và hơn thế, lạ ở cấu trúc nội tại, vẫn còn đó những vỉa quặng ngầm, chưa dễ khai quật hết!
Căn cứ vào cuộc đời và nội dung tác phẩm, có thể ước đoán bài thơ Mạn thuật số 4 này, được Ức Trai viết ở thời kỳ bị thất sủng, có vẻ nhàn rỗi ở Côn Sơn, mặc dù về danh nghĩa, Nguyễn Trãi vẫn còn có chức quan khá to, khi cần thì triều đình mới gọi về Kinh, mới “Nhập nội hành khiển”. Ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi có không gian thật yên tĩnh, để vui với non xanh nước biếc, để ngồi ngẫm sự đời. Đây có lẽ là thời điểm Ức Trai viết nhiều nhất, đặc biệt là thơ, đặc biệt nữa là thơ Nôm.
Hai câu đầu, tác giả viết:
Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Thi nhân đi dạo buổi chiều hôm, với một người tri kỷ nào đó chăng? Có lẽ không phải, vì vợ ông, bà Nguyễn Thị Lộ giỏi văn thơ, người tri âm tri kỷ nhất trong mấy bà vợ của Nguyễn Trãi, còn đang làm quan ở trong triều cơ mà! Vậy thì Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay là dắt tay ai? Không ai cả, bởi những thời điểm như thế này, thi nhân chắc không cần thêm một người nào nữa, bởi tiên sinh cốt để tâm hồn yên tĩnh mà suy tư, mà Trông thế giới phút chim bay…Thế nên, Chiều hôm dắt tay phải chăng là ánh chiều còn dắt lại, đọng lại qua kẽ tay, còn vương trên áo trên khăn? Hay là thi nhân như một vị tiên dạo núi, dắt theo cái nắng chiều, dắt tay cả chiều hôm làm bạn tri âm? Hay là buổi chiều hôm hữu tình kia đã chủ động dắt tay thi nhân đi dạo? Nếu thế thì đây quả là một câu thơ tuyệt hảo! Phải là dắt theo chiều hôm đi dạo, hoặc là chiều hôm như một người tình tri kỷ đang đủng đỉnh dắt tay thi nhân, cả hai, trong một tâm thế chẳng vội vã gì, mới đủng đỉnh dắt tay nhau mà đi?…Chỉ có thể hiểu như vậy, mới tương ứng với tầm vóc của vĩ nhân, của tâm hồn và trí tuệ vĩ nhân Trông thế giới phút chim bay ở câu sau. Đó chính là cảm nhận tinh tế về thế giới kỳ vĩ, qua đó mà suy ngẫm về cõi nhân sinh vụt đến vụt đi, biến ảo trong khoảnh khắc, như thể một lát cắt nhiệm màu…
Hai câu đầu đã thấy những hình tượng thơ lộng lẫy và tầm vóc một thi tài, một nhân tài hiếm lạ và một trí tuệ lớn, luôn biết làm chủ, luôn biết tự tin thông qua con mắt xanh nhìn thấu hết mọi sự đời, mọi lẽ đời mà chiêm nghiệm suy tư.
Suy tư ấy biểu hiện cụ thể ở hai câu tiếp theo:
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay.
Trên kia là suy tư về vũ trụ rộng lớn, về cõi người ngắn ngủi, thì đây là tâm thế, là ý chí tự tin. Tác giả chỉ mượn chuyện gió chuyện mây, chuyện núi cao núi thấp, chuyện cây cứng cây mềm, để gửi gắm chuyện đời chuyện mình một cách khéo léo. Mây ở trên trời, cao hơn núi, thế thì ngọn núi nào cao, ngọn nào thấp, mây thừa biết và thuộc hết, bởi đơn giản rằng mây có thể quan sát, bao quát được tất cả núi non kia dưới tầm mắt của mình! Còn như cây nào cứng, cây nào mềm, gió biết ngay, làm sao mà ngụy biện được? Mượn thiên nhiên, cốt chỉ để nói một điều đơn giản, rằng chả có gì che được mắt tiên sinh! Thật giả, trắng đen, tốt xấu, tài năng trí tuệ và bản lĩnh của ai thế nào, nhân cách người ta thế nào, tất cả dường như không thể nằm ngoài tầm bao quát tường tận của Tiên sinh!
Câu 5 và 6, lại là những chiêm nghiệm về việc nước và trở lại cái triết lý bất biến của vũ trụ: Nước mấy trăm thu còn vậy / Nguyệt bao nhiêu kiếp vẫn rày.
Đất nước trải qua mấy trăm năm còn như vậy, thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, tiên sinh đều biết hết, kể cả cái lẽ hưng vong, rồi người hay kẻ dở. Chuyện đời biến ảo khó lường, mà đời người thì ngắn ngủi như một giấc chiêm bao, chỉ riêng có vầng trăng thì dường như vẫn thế, bao nhiêu kiếp rồi vẫn thế. Nguyệt bao nhiêu kiếp vẫn rày, vẫn soi mắt nhìn xuống nhân gian mà chứng kiến cảnh thịnh suy tan hợp của cõi người…
Hai câu cuối của bài thơ, rút cục, lại trở về cái ý gần gũi, sau khi đã bàn chuyện xa xôi bóng bẩy:
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng nguời cực hiểm thay!
Hai câu thất ngôn kết thúc bài thơ, biến đổi ở cấu trúc câu, như một tiếng thở dài của một con người tự biết mình thông tuệ, biết hết mọi chốn, thông hết mọi sự đời, mà riêng chỉ một điều tiên sinh đành bất lực: Bui một lòng người cực hiểm thay!
Vì sao vậy? Lòng người là cái gì mà bí hiểm thế? Nó sâu, nó rộng, nó góc cạnh hiểm hóc thế nào, hình thù nó ra sao, chẳng thể nào biết được. Ở một chỗ khác, trong Ngôn chí bài số 5, Nguyễn Trãi cũng từng viết: Dễ hay ruột bể sâu cạn / Khôn biết lòng người vắn dài. Tiên sinh thông thái là vậy, mọi chốn đều thông hết, chỉ có lòng dạ con người thì ông đành bất lực, không sao hiểu được tính hiểm độc, cực hiểm độc của nó! Và đó chính là một tiếng thở dài bất tận, là cái thiên la địa võng vô hình vô ảnh đã quăng chụp lấy cuộc đời Tiên sinh, biến nó thành nỗi đau nghìn đời sau không sao rửa sạch!
Mạn thuật- bài số 4 chính là là lời than thở bất lực của Nguyễn Trãi trước việc đời, trước lòng người bất trắc khó lường. Con người nhân cách cứng cỏi, đầy tự tin vào tấm lòng yêu nước sáng trong của mình, dù khi thế cuộc đã đổi thay: “Vườn quỳnh dù chim kêu hót / Cõi trần có trúc đứng ngăn” thì thực tế, bây giờ Tiên sinh cũng đành bất lực trước làn gió đen đang khuấy lên ở phía chân trời và ở chính nơi điện các đương triều. Hình như Tiên sinh đã linh cảm thấy cái hậu hoạ vô cùng đen tối, rồi chẳng bao lâu nữa cũng sẽ giáng xuống đời ông, như một định mệnh nghiệt ngã.
Hà Nội 8-82011 (Nguồn trannhuong.com)