- Đang online: 1
- Hôm qua: 1220
- Tuần nay: 22110
- Tổng truy cập: 3,371,518
VỀ BÀI THƠ NÔM SỐ 79 CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
- 1846 lượt xem
VỀ BÀI THƠ NÔM SỐ 79 CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG NA Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 1 Bạch Vân thi tập (白雲詩集) hiện đang lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang kí hiệu AB.157, AB.309 và AB.635. Cả ba văn bản này đều gồm 100 bài thơ, dùng chữ Quốc âm theo cách thể trường, đoản. Ta có thể chia văn bản của chúng thành hai loại. Loại AB.157 và AB.309 (gần như hoàn toàn giống nhau), tạm gọi là bản a; loại thứ hai, chỉ có một bản là AB.635, tạm gọi là bản b. Riêng Bài thơ Nôm số 79(1) của bản a được Trần Trung Viên phiên âm – biên soạn đưa vào sách Văn Đàn bảo giám(2) in năm 1926; Sở Cuồng Lê Dư phiên âm, chú giải in năm 1939,… Sau, Bài 79 đã sẵn có, được đưa vào Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XVII(3), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm(4),… và đặt thêm một số dấu (như phảy, chấm,…) hoặc thay vài chữ, thêm khảo dị, chú thích,… Cuối cùng, đầu thế kỉ XXI, sách Ngữ văn 10, tập một chọn đúng Bài 79 trên, rồi đặt tên là Nhàn(5). Dưới đây là toàn Bài 79 trong bản a như sau: 蔑埋蔑?蔑芹鉤 疎引油埃?趣芾 些曳些尋尼永尾 ?坤?典准唠哰 秋咹芒竹冬咹稼 春沁湖蓮夏沁 ?旦檜些仕㕵 ?䀡富貴似占包 “Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dù ai vui thú nào. Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao. Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Bài 79 thuộc thất ngôn bát cú, sáng tác theo cấu trúc cận thể thơ luật Đường. Toàn bài tạo thành một hệ thống chặt chẽ: trên – dưới, tung – hứng, mở – kết,… Tuy nhiên, do khuôn khổ bài viết, chúng tôi chủ yếu trình bày hai vấn đề: Mở và Luận của bài trên. * 1. Mở: phá và thừa đề. Mở bài, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) viết: Một mai một cuốc một cần câu. Đấy là câu phá đề – bao quát chủ đề. Tiếp theo là thừa đề, nói vào nội dung: Thơ thẩn dù ai vui thú nào. Vậy, câu phá đề, tác giả muốn nói gì về chủ đề ? Khi phá đề, Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy ngay điển từ Nhạc phủ – bài Kích nhưỡng ca (擊壤歌) để mở đề: “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực (鑿井而飲, 耕田而食)”; nghĩa là, “đào giếng mà để uống, cầy ruộng mà để ăn”. Bài Kích nhưỡng ca ngợi cuộc sống thái bình thịnh trị lúc Nghiêu đang làm vua, khi xã hội nguyên thủy giữa con người với con người bình đẳng và con người đang sống tự do, vui vẻ,… Từ đó, bài ca Kích nhưỡng được truyền bá, hát từ thời Nghiêu, qua thời Thuấn, đến thời Vũ và kéo dài. Song, chế độ xã hội phát triển, khi đẳng cấp hình thành, vua nắm quyền, dân bị bóc lột, bị áp bức,… Thế là, con người muốn vùng lên chống lại thống trị. Tư tưởng tự do quật khởi. Hấp thụ tư tưởng Mặc Tử (khoảng 468 – 376 TCN) và Trang Tử (khoảng 369 – 286 TCN), Hàn Phi (sống khoảng 280 – 233 TCN) cất cao ý chí: “Ngô bất thần thiên tử, bất hữu chư hầu, canh tác nhi thực chi, quật tỉnh nhi ẩm chi(6) (吾不臣天子, 不友諸侯,耕作而食之, 掘井而飲之)”, nghĩa là: Ta không làm bề tôi của Thiên tử (nghĩa là không có Thiên tử), không làm bạn với các nước chư hầu (vì họ đang đội đầu Thiên tử), cầy ruộng mà ăn thứ đó, đào giếng mà lấy nước đó uống. Tư tưởng Mặc Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử và dĩ nhiên cả tư tưởng Nho gia được hội tụ ở Nguyễn Bỉnh Khiêm cuối thế kỉ XV – thế kỉ XVI. Ông đã biểu hiện tư tưởng đó qua Quốc ngữ thi trong đó có Bài 79. Thời đại Việt Nam thế kỉ XV – XVI thay đổi: nhà Lê chuyển sang triều Mạc. Năm 1497, Lê Thánh Tông mất. Lê Hiến Tông nắm quyền chẳng được bao lâu: 1498 – 1504. Rồi, Lê Túc Tông chỉ làm vua có 6 tháng 2 ngày (từ mồng 6 tháng 6/1504 đến ngày mồng 8 tháng 12/1504). Hai vị vua tiếp theo là Uy Mục (1505 – 1509) và Tương Dực (1509 – 1516) cùng nhau phá phách, đưa nhà Lê xuống dốc thẳm. Trước tình cảnh đó, Chiêu Tông (1516 – 1522) cố gắng vãn hồi nhà Lê. Nhưng, ông hoàn toàn bất lực. Vua cuối cùng – Cung Hoàng (1522 – 1527) bị ngoại thích giết. Thế là, một trăm năm (1428 – 1527) nhà Lê chấm dứt. Chính quyền về tay họ Mạc. Bấy giờ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã 36 tuổi (1491 – 1527); ông cũng đủ thời gian hơn ba mươi năm qua để chiêm nghiệm thịnh suy của nhà Lê. Ông sẽ đi theo hướng nào ? Trước hết, Nguyễn Bỉnh Khiêm gia nhập triều Mạc, đỗ Trạng nguyên năm 1535 vào tuổi 44; rồi làm quan bảy năm: 1535 – 1542. Khi 51 tuổi – 1542, Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan, trở về cuộc sống thảng thích giữa trời và đất, chẳng làm bề tôi nhà Mạc, cũng chẳng chầu về nhà Lê Trung hưng. Vì thế, ông theo Hàn Phi, đấy là tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm biểu hiện Một mai, một cuốc,… Sau mai và cuốc, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện tiếp ý tưởng của mình: một cần câu. Ở đây, ông dùng điển Trang Tử về cần câu mà Điền Tử Phương, thời Chiến Quốc ghi: “Văn Vương quan ư Tang, kiến nhất trượng phu điếu, nhi kì điếu mạc điếu; phi trì kì điếu hữu điếu giả dã, thường điếu dã (文王觀於臧, 見一丈夫釣而其釣莫釣; 非持其釣有釣者也, 常釣也)”; nghĩa là: Văn Vương xem câu ở đất Tang, thấy một người trượng phu đang câu mà cần câu không có lưỡi câu; người đó không cầm cần câu có lưỡi câu, mà luôn luôn câu. Câu nói đó được Tư Mã Thiên (khoảng 145-135 TCN – ?) thuật lại, viết thành thiên Thế gia của Tề Thái Vọng trong Sử kí. Tư Mã Thiên kể về tài năng của thánh hiền Lã Vọng, đã suốt đời 70 tuổi mà vẫn buông câu lưỡi thẳng, cũng chẳng dùng mồi thơm câu trên sông Vị, đợi chờ phò tá Vũ Vương diệt Thương Trụ, lập triều Chu. Bởi thế, muốn biết “cần câu” trong Bài 79 của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nên hiểu ý tưởng ở Trang Tử. Vậy mà, cũng có người viết rằng, cần câu là “công cụ lao động: … để bắt cá”. Thôi thì, đành phải cung cấp cái gọi là “cần câu” vậy ! Trong Kinh Thi phần Vệ phong có bài Trúc can (竹?竿). Hai câu đầu, cô gái hát: “Địch địch trúc can, Dĩ điếu vu Kì” (蔕蔕竹竿, 以釣于淇) – nghĩa là, “Cành tre dài von vót, để câu ở sông Kì”(7). Đấy là cần câu để câu, chứ không phải là công cụ lao động để bắt cá ! Đấy là mở đề. Để thừa đề, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói thẳng về nội dung: Thơ thẩn dù ai vui thú nào. Vui thú mà Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn là, tự tại ung dung, một mình – chỉ một mình tôi(8) – giữa đất và trời; không làm bề tôi đội đầu Thiên tử, cũng chẳng làm bạn với các chư hầu vì họ đang đội Thiên tử trên đầu; tự đào giếng mà lấy nước uống; tự cầy cấy mà lấy thứ ăn; câu chẳng cần mồi, chẳng lưỡi câu mà các bậc thánh hiền như Vũ Vương tự tìm đến Khương Tử Nha. Nếu đội Thiên tử, nghĩa là, khắp nơi từ bầu trời đến mặt đất đều của Thiên tử; cũng nghĩa là, kể cả rau vi, rau thái trên núi sâu thẳm đều thuộc của Thiên tử. Thế thì, chỉ có con đường đi theo Bá Di, Thúc Tề hóa thành chim kêu: “bất thực Chu túc (不食周粟)”(9) – (không ăn thóc nhà Chu) ở Thú Dương mà thôi. Đấy là Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà minh triết, nhà thơ Việt Nam thế kỉ XVI. Với tầm tư tưởng như vậy khiến các vua Mạc: Phúc Hải (1541 – 1546), Phúc Nguyên (1547 – 1561), Mậu Hợp (1562 – 1592) hoặc vua Lê: Trung Tông (1549 – 1556), Anh Tông (1557 – 1573), Thế Tông(10) (1573 – 1560) đều tự đến tìm, tôn Nguyễn Bỉnh Khiêm là bậc quân sư, bậc sư phụ. Vậy mà, có người biến Nguyễn Bỉnh Khiêm thành nông dân lao động cần cù, đào đất, cuốc xới đất, bắt cá,… Chẳng hạn, trong các sách Trung học phổ thông với đầu đề “1. Vẻ đẹp cuộc sống” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, họ ghi: “…Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những công cụ lao động: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá”(11). Tôi biết bình luận gì đây ? 2. Luận. Thơ cận thể luật Đường theo thứ tự: Mở đầu gồm “phá đề” và “thừa đề” (câu 1 và 2); tiếp theo là “thực” (câu 3 và 4) và “luận” (câu 5 và 6); cuối là “kết” (câu 7 và 8). Phần luận trong thơ luật Đường, các thi nhân thường giãi bày ý tưởng hoặc cảm xúc của mình về chủ đề mà mình đang suy ngẫm. Trong Bài 79, Nguyễn Bỉnh Khiêm bộc lộ tình cảm của mình qua hai câu luận: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Nếu chỉ liếc qua hai câu trên, ta nhận ngay trình tự thời gian mà Nguyễn Bỉnh Khiêm cố ý đảo ngược: thu -> đông // xuân -> hạ. Đấy chính là nghệ thuật thơ ca, là ý đồ cấu tứ thơ ca của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ấy mà, có người viết: “Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Hai câu thơ là một bộ tranh tứ quý, có cảnh, có người, có mùi vị, có hương sắc(12)”. Ôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu xếp tứ quý theo lối vẹt hót: xuân, hạ, thu, đông! Ông cũng chưa bao giờ làm việc môi trường! Một bộ tứ quý, đặt bức nào trước, bức nào sau, đâu phải cứ sắp xếp bừa? Vả chăng, tranh tứ quý vốn do người Việt Nam thời trung đại thường viết chữ Hán, chữ Nôm,… Thành thử, trẻ không đọc được nên xếp lộn bốn mùa. Câu đầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ăn lên trên và đặt song trùng: ăn (măng) // ăn (giá). Đấy là “hình nhi hạ (形?而ứ?Â)”. Câu sau, thi nhân vẫn dùng phương pháp sóng đôi: tắm (hồ) // tắm (ao). Đây mới chính là “hình nhi thượng (形?而ứ?ẽ)(13)” Hai câu luận song song đối nhau. Nhưng, ngay trong mỗ câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chặ đi: hình nhi thượng trước (măng trúc) // hình nhi hạ sau (giá). Măng trúc do trời ban, thiên nhiên ban; còn giá bởi con người vất vả làm ra. Câu sau vẫn theo lối cấu trúc: Hình nhi thượng trên – hồ sen do ông xanh tạo hóa, ông ban cho đựợc tắm hương trời; mà nếu, ông xanh không cho thì vui vẻ trở về tắm ao (cũg có thể tắm ao tù) – Hình nhi hạ dưới. Con người tự làm, chẳng phải đợi Thiên tử Một năm bố mùa, có tới ít nhất ba mùa măng: xuân, thu, đông. Tháng ba cuối xuân, măg ngon. Lương Tiêu Sâm(14) ngâm: _ 春筍方解籜, 弱柳向低風. “Xuân duẩn phương giải thác Nhược liễu hướng đê phong” (Măng xuân mới bóc, Liễu mềm gió qua). (Tiễn Tạ Văn Học). Gần ba trăm năm trước đấy, nhà thơ Đỗ Phủ (712 – 770) hứng khởi, ngất ngưởng ca: 青青竹笋迎船出 日日江魚入饌來. “Thanh thanh trúc duẩn nghênh thuyền xuất Nhật nhật giang ngư nhập soạn lai.” (Măng trúc xanh xanh thuyền chở đến, Ngày ngày sông cá nhập vào đây). (Tống Vương Thập ngũ Phán quan Phù thị hoàn Kiềm Trung). Đến tiết đông, cuối mùa lại có măng đặc biệt. Khi đó, búp măng chưa nhô khỏi mặt đất. Người ta vất vả đào măng dưới gốc bụi tre. Mã Viện (14 TCN đến 49 SCN) cho rằng, vị của măng đông ngon hơn măng cuối xuân, đầu hè. Nhưng, mùa thu, măng trúc ăn sang trọng hơn. Sách nói, Tô Tụng (1020 – 1101) là người Phúc Kiến, nhà Thiên văn, nhà Y dược. Với tư cách là nhà Y học, ông nhận xét: “Chỉ riêng các nhà lấy măng trúc đắng mùa thu là quý nhất”. Sau, Lí Thời Trân (1518 – 1593) nhắc lại lời Tô Tụng về măng trúc đắng mùa thu. Lại có truyện về Lưu Hoài Trân trong Nam Tề thư(15). Truyện kể rằng, mẹ của Linh Triết thường bị bệnh. Linh Triết tự mình cầu đảo, mộng thấy cụ già, mặc áo vàng, bảo: “Lấy măng trúc ở Nam Sơn cho mẹ ăn, mẹ lập tức khỏi ngay”. Quả nhiên, khi mẹ Linh Triết được ăn măng Nam Sơn, bèn khỏe. Truyền thuyết trên mang ý nghĩa về tinh thần giá trị của măng trúc thời xưa, giúp con người sống lâu. Đấy là nửa câu trên: hình nhi thượng – thu măng trúc. Nửa câu dưới: hình nhi hạ – đông giá thì sao ? Theo Bạch Vân thi tập từ bản a đến bản b đều hợp trùng Bài 79. Riêng phần luận, từ bản a đến bản b hoàn toàn giống nhau. Đặc biệt, câu năm đều viết chữ cuối cùng là giá稼(bộ hòa禾): Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Chữ giá (稼) mang bao nhiêu nghĩa? Theo Tự điển chữ Nôm có bảy chữ giá(16), gồm bốn chữ Hán văn ngôn là: 架, 駕, 這, 價và ba chữ tự tạo là: ?, ?, ?. Khi gia nhập vào chữ Việt, chữ Hán văn ngôn mang luôn trường nghĩa gốc Hán vào Việt Nam. Chẳng hạn, chữ giá (稼) vừa là động từ (cầy cấy, trồng trọt), vừa là danh từ (thóc gạo, ngũ cốc). Thí dụ: “(Thuấn) tự canh giá, đào ngư dĩ chí vi đế, vô phi thủ ư nhân giả ((舜)自耕稼陶漁以至為帝,無非取於人者)” – (Thuấn) tự cầy cấy, làm công cụ, đánh cá,… đến việc làm đế, chẳng có gì là không làm(17). Như vậy chữ giá là động từ: cày cấy, trồng trọt. Câu thơ: “Ta ngã nông phu, Ngã giá kí đồng ” (嗟我農夫, 我嫁既同) – nghĩa là, “Ôi ! Những nông phu của ta, lúa của chúng ta đã gom chứa vào đấy rồi”(18). Như vậy, giá là danh từ: lúa gạo, ngũ cốc… Khi gia nhập vào kho tàng chữ Việt, chữ Hán văn ngôn trở thành chữ Nôm. Cho nên, tùy trường hợp cụ thể, chúng có thể giữ chức năng động từ hoặc giữ chức năng danh từ. Hơn nữa, như chúng tôi đã nói, thể thơ luật Đường bao giờ cũng tạo thành một hệ thống chặt chẽ: trên – dưới, tung – hứng, mở – kết,… Nếu Mở đề đã nói “cuốc” (canh điền hoặc canh tác) là đã chuẩn bị về kết quả giá: thóc gạo, ngũ cốc. Tuy nhiên, đôi khi vì sơ xuất, chưa để ý mối liên hệ nhân quả (Mở đề – Luận) nên giải thích bị trệch. Chẳng hạn, biên soạn Chú thích: “Giá: thứ rau bằng mầm của hột đậu xanh ngâm ủ, mọc nên”(19). Thế là, có người tóm ngay và lấy làm sung sướng, vừa nhấm nháp, vừa gật gù, tán dương về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá đỗ, nhưng câu thơ “thu ăn măng trúc, đông ăn giá”, nói như Xuân Diệu là có cảm giác “ăn giá tuyết, uống băng đông”. Cách viết tinh tế trong câu thơ là biểu hiện của cảm nhận tinh tế về thiên nhiên của tác giả”(20). Đây là hai vấn đề mà chúng tôi đã trình bày. Nếu chúng tôi có viết gì sơ suất, rất mong các độc giả chỉ giúp và lượng thứ. Riêng đặt nhan đề Nhàn và phần Kết của Bài 79 chúng tôi sẽ trình bày tiếp bài sau. Chú thích: (1) Từ đây gọi là Bài 79, hoặc Số 79. (2) Văn Đàn bảo giám, Văn học Tùng thư, 1926, Quyển III, gồm 49 bài thơ Nôm, từ tr.1 đến tr.15. (3) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XVII, Nxb. Văn hóa, H. 1962, tr.466. (4) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, H. 1983. Riêng văn bản này có thêm Khảo dị, Chú thích, tr.114-145. (5) Ngữ văn 10, Tập một, Nxb. Giáo dục, H. 2006, tr.128-129. (6) Hàn Phi Tử: Ngoại trừ thuyết hữu thượng(外儲說右上). (7) Kinh Thi, phần Vệ phong, bài Trúc can, Tập 1, Nxb. Đà Nẵng, Tạ Quang Phát dịch, tr.288. (8) Xin chú ý lặp lại từ “một” – khẳng định cái tôi của tác giả. (9) Xem Bá Di liệt truyện trong Sử kí của Tư Mã Thiên. (10) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585. (11) Ôn tập Ngữ văn 10, tr.63; Ngữ văn 10, Tập một, Sách giáo viên, tr.167, Bài tập Ngữ văn 10, Tập một, tr.89, Bình giảng Thơ Nôm Đường luật tr.59 (chỉ thay “lão nông chi điền” trước, nay đổi là “lão nông tri điền”). (12) Bài tập Ngữ văn 10, Tập một, tr.89; Ngữ văn 10, Tập một, Sách giáo viên, tr.168. (13) Xem Dịch (易), Hệ từ thượng (系辭上). (14) Lương Tiêu Sâm (梁蕭琛), thời Tống. (15) Sách Nam Tề thư do Tiêu Tử Hiển soạn. (16) Tự điển chữ Nôm, Nxb. Giáo dục, 2006, tr.413-414. (17) Công Tôn Sửu thượng, sách Mạnh Tử. (18) Kinh Thi, T.I, Nxb. Đà Nẵng, 2003, bài Thất nguyệt, tr.650, Tạ Quang Phát dịch. (19) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, 1983, tr.115. (20) Bài tập…, tr.89, Ôn tập… tr.63, Ngữ văn… Sách giáo viên, tr.168./. (Tạp chí Hán Nôm; Số 4 (94) 2009; Tr.68-73) |
Tìm hiểu thêm về
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê–Mạc phân tranh cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Mục lục[ẩn] |
[sửa] Tiểu sử
Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.
Ông khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào.
Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi.
Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu, lộ diện, đành ở ẩn một nơi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.
Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ– tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính …
Ông mất năm Ất Dậu (1586) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.
[sửa] Tác phẩm văn chương
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.
[sửa] Tiên tri
Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số… Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình“.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.
[sửa] Nhận xét
Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài “Huyền cơ tham tạo hóa” (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).
Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng
- Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu
- Nghìn năm sau như vẫn một ngày.
[sửa] Giai thoại
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát:
- “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”.
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
- “Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung”.
Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát
- “Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng”.
Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
- “Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng”.
Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không có chí làm vua.
Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.