- Đang online: 4
- Hôm qua: 918
- Tuần nay: 14685
- Tổng truy cập: 3,368,705
Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung
- 241 lượt xem
Phần 8
Một sáng Quảng vụ Thái giám Nguyễn Nhữ Vi vào tâu với Tương Dực rằng Điển sự Thái giám Nguyễn Khắc Hài trở lại cung, xin được vào yết kiến
Tương Dực cho vào. Nguyễn Khắc Hài sụp lậy trước bệ rồng, trình bày rằng do trước đây trót tận tuỵ với Mẫn Lệ nên sợ hãi mà phải trốn tránh, nay thấy nhà vua mở lượng khoan hồng nên quay lại, nguyện làm chân hoạn quan hạ đẳng, chỉ mong được tha tội chết. Tương Dực cười:
Khắc Hài sụp lậy. Từ đấy các quan đại thần và người trong cung lại thấy Khắc Hài như ngày mới vào cung, cặm cụi làm đủ các việc vặt vãnh như quét tước, gánh nước, bổ củi, giã gạo. Có điều y không còn nhanh nhẹn như trước vì đã có tuổi, nếu như không có ai xung quanh, y còn dừng các việc, vòng tay ra đằng sau đấm lưng thùm thụp. Không còn hình ảnh của viên Điển sự Thái giám Đường Trung hầu oai vệ năm nào! Một hôm Khắc Hài nhờ một hoạn quan trong cung tâu với vua Hồng Thuận rằng Tu dung của Mẫn Lệ là Trần Thị Xuân Trúc muốn vào cung hầu vua. Tương Dực bèn cho gọi Khắc Hài vào hỏi cho rõ chuyện. Khắc Hài tâu: Vì thấy vua Hồng Thuận độ lượng cho gọi Lê phi nên Trần Tu dung cũng muốn được như vậy. Tương Dực nói:
– Trẫm đã có Lê phi thì cần chi ai nữa! Khắc Hài nói:
– Tâu bệ hạ chuyện không chỉ vậy. Kẻ hạ thần biết hiện nay bệ hạ rất mong có hoàng tử vì Hoàng hậu chỉ sinh được ba công chúa, các bà khác thì thần không rõ thế nào. Nếu bệ hạ cho nàng Trúc vào hầu thì điều bệ hạ mong mỏi nhất định sẽ được. Còn như bệ hạ có yêu chiều nàng hay chỉ cần Lê phi thì lại là chuyện khác.
– Tại sao lại như thế? – Tâu bệ hạ, trong một tháng, đàn bà con gái ai cũng chỉ có 26 ngày là đàn ông gần gũi được. Trong 26 ngày ấy họ chỉ có mươi ngày là ham muốn thực sự, mà trong mươi ngày đó chỉ có một ngày là chắc chắn thụ thai, trong ngày hôm ấy thì khả năng sau này sinh con trai chỉ vào một giờ nhất định. – Chưa thấy một ai nói với trẫm như vậy. – Khanh biết rõ thế và hầu Mẫn Lệ đã lâu, tại sao Mẫn Lệ mãi không có con?
– Tâu bệ hạ, thực ra Trần Hoàng hậu đã sinh hoàng tử nhưng không nuôi được. Còn sau đó Mẫn Lệ không chịu nghe lời thần, ham mê vô độ, tuỳ tiện nên không thể có con cũng phải. – Vậy giờ ấy, ngày ấy là lúc nào?
– Mỗi người một ngày một giờ khác nhau, để biết được lúc đó phải rất kỳ công. Với nàng Trúc thì là canh ba ngày 25 tháng Tư này.
– Vậy thì hôm ấy khanh đưa nàng Trúc đến cho trẫm. Được như ý trẫm sẽ trọng thưởng. – Trong vườn Thượng uyển có lầu gọi là lầu Vọng Nguyệt. Nàng Trúc lần đầu tiên hầu Mẫn Lệ là trên đấy. Bệ hạ ở trong cung nhiều rồi nên có một hôm ra đấy xem sao. Bệ hạ sẽ thấy giữa thiên nhiên, chuyện đó thật tuyệt diệu.
Đêm 25 ấy lại vô tình trùng với đêm thơ, Nguyễn Khắc Hài không biết điều đó bởi lệ từ thời Tương Dực mới có. Tuy nhiên vẫn may vì đêm thơ thường chỉ cuối canh hai là dứt.
Khoảng giữa canh một, Tương Dực cùng mấy hoạn quan và cung nữ ra chơi cung Trùng Hoa, rồi qua điện Vạn Thọ, điện Cẩn Đức, điện Kính Thiên. Tại điện Kính Thiên, đông đảo đại thần văn võ đã chờ sẵn. Tất cả lại cùng nhau ra vườn Thượng Uyển để tới lầu Vọng Nguyệt. Tương Dực lên lầu còn các quan ở bên dưới. Tương Dực nói:
– Đêm thơ hôm nay chỉ đúng đến cuối canh hai thôi đấy vì trẫm có việc. Các cung nữ bắt đầu tấu nhạc làm nền. Quan hàn lâm cũng đã chuẩn bị xong giấy bút để chép thơ. Tương Dực nói:
– Trẫm xin xướng câu quốc âm thừa đề: “Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài”. – “Ôm đàn xin chớ khúc bi ai” – Nguyễn Văn Lang tiếp ngay đấy. – “Xuân hết, nắng vàng như sáng láng ” – Trịnh Duy Đại rung đùi đọc và quay về phía Lê Quảng Độ, có ý mời làm tiếp. Quảng Độ nói:
– Nói chung những anh làm câu thứ ba đều là anh khôn vì toàn đặt anh làm câu tiếp vào thế bí khiến dễ bị thất niêm. Nhưng tôi cứ liều đọc, có gì xin bệ hạ và các quan châm chước: “Hạ về, gió rét cũng nguôi ngoai”. Đọc xong, Quảng Độ nhìn Lương Đắc Bằng. Đắc Bằng gật đầu, chiêu ngụm nước rồi đọc: – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”.
Vua Tương Dực khẽ vỗ tay thưởng cho câu thơ hay. Đàm Thận Huy tiếp: – “Ngày vắng hái hoa vịn mây”. Tương Dực lại vỗ tay. Nhà vua ra hiệu cho Vũ Quỳnh. – “Chim kêu ríu rít làm bầu bạn”.- Vũ Quỳnh đọc. – “Khách trần ai có biết chăng ai?”- Lê Hy đọc câu cuối cùng. Tương Dực nói:
– Hôm nay đêm thơ kẻ xướng người hoạ thế là được. Bây giờ trẫm mời các khanh mỗi người một chén rượu rồi chia tay. Mọi người lục tục ra về, chỉ còn quan nội thần Nguyễn Lĩnh, Đô lực sĩ Hữu Vĩnh và các hoạn quan, cung nữ. Mãi chưa thấy Khắc Hài đưa nàng Trúc đến nên Nguyễn Lĩnh rước vua ra hồ sen cho khuây khoả lúc chờ đợi.
Dường như không ai chú ý đến một hoạn quan vừa mới xuất hiện, y cũng cầm quạt nhưng đến gần vua mới mở, lấy trong quạt ra một vật sáng loáng. Mấy hoạn quan gần đó vừa kịp nhận ra con dao trong tay tên hoạn quan ấy thì cũng là lúc nó đâm thẳng vào nhà vua. May sao Tương Dực nhanh mắt nên kịp lấy người cung nữ đang đứng bên cạnh để đỡ, nhát dao trúng ngay cổ cung nữ, máu toé khắp xung quanh. Đám cung nữ kẻ chạy té tát, kẻ dúm vào nhau, hoạn quan thì cố lấy người che chở vua, đánh trả tên hoạn quan nọ và không ngớt hô hoán gọi người ứng cứu. Cung sự Thái giám Ngô Khoái bị đâm tới ba bốn nhát vẫn sấn lăn vào che chở cho nhà vua. Kẻ hành thích đành phải nhảy qua bờ tường chạy thoát. Nhưng mấy hoạn quan đã nhận ra hắn, đó là Nguyễn Khắc Hài. Đô lực sĩ Hữu Vĩnh và Nguyễn Lĩnh cùng nhảy qua tường đuổi theo Khắc Hài.
Nhà vua vội vã trở về cung, tới nơi đỗ xe thì thấy mấy người coi xe đã bị giết, nằm la liệt. Một người còn thoi thóp kể Khắc Hài đã cướp long xa. Khắc Hài dựng ra chuyện nàng Trúc muốn hầu Tương Dực, cốt lừa Tương Dực ra vườn Thượng Uyển vắng vẻ để ám hại nhưng bên nhà vua lắm người quá nên việc không thành. Khắc Hài bèn cướp chiếc xe của vua, đi về phía Đại Hồ. Một người chờ y bên cống Lâm Khang, đó là Đô lực sĩ Nguyễn Thọ. Khắc Hài nói:
– Xưa vua Hiến Tông trước khi mất có để lại cho Tiệp dư là Bạch Yến long thai, sau này Bạch Yến đã sinh hoàng tử. Ngài tên là Tùng, xưng là Hoa Khê vương, tuy tuổi còn trẻ nhưng thông minh, trí lực hơn người, ta nên lập làm vua. Không giết được Oánh nhưng tôi lấy được chiếc xe của y, nay ta đem xe đi đón vua mới rồi chiêu tập những người trung nghĩa kéo về kinh đánh đổ Oánh. Nguyễn Thọ nghe theo. Ngay trong đêm, hai người tới phường Đông Hà, gặp Lê Tùng. Giờ Nguyễn Thọ mới biết Lê Tùng chỉ là đứa trẻ lên 7! Thấy Nguyễn Thọ có vẻ băn khoăn, Khắc Hài bảo: “Vua bé thì càng dễ cho chúng ta chứ sao! Tôi đã xin nhà vua cho tôi làm Thái sư, ông làm Thái uý, nhà vua đã nghe”. Nguyễn Thọ chịu theo. Y không biết Khắc Hài đang có âm mưu ghê gớm vì “Hoa Khê vương” thực ra là con người anh cả của Khắc Hài với Bạch Yến!
Khắc Hài bàn: – Hiện nay trong tay chúng ta có mấy trăm quân Túc vệ trung thành với vua Đoan Khánh, nhân lúc Oánh đang hoảng hốt, ta đột kích bất ngờ vào kinh thành, có khi được. Tôi xin dẫn đường, đường đi lối lại trong hoàng thành tôi thuộc như lòng bàn tay.
Nhưng Khắc Hài và Nguyễn Thọ chưa kịp tiến quân thì Thọ Quận công Trịnh Hựu, Đô lực sĩ Hữu Vĩnh, Đô lực sĩ Cù Khắc Xương đã dẫn quân triều đình đến đánh. Khắc Hài tỏ ra không hề sợ hãi, quát bọn Trịnh Hựu: -Tôi trung không thờ hai chủ. Vua Đoan Khánh chưa hề bạc đãi các ngươi, các ngươi đã u tối theo tên phản thần Lê Oánh giờ lại nghe lệnh hắn đến đánh chúng ta, không biết xấu hổ sao? Biết điều thì hãy cùng chúng ta trở giáo quay về kinh hỏi tội tên Oánh, trả thù cho vua Đoan Khánh. Trịnh Hựu cười:
– Sao ngươi ngu vậy? Hãy dỏng tai lên nghe ta nói đây: Mẫn Lệ là hôn quân bạo chúa, hắn chết đi cả thiên hạ đều mừng. Nay tốt nhất nên hạ giáo quy hàng may ra còn có đường sống! Nguyễn Thọ điên tiết: – Không nhiều lời! Hãy xem mũi tên của ta đây. – Ha ha!- Khắc Xương ngửa cổ cười- Ta biết ngươi là Bộ cung thủ rồi, nhưng sao ngươi lại không nhớ ta từng là Mã cung thủ sao?
Nguyễn Thọ chẳng nói chẳng rằng, bắn luôn, tên cắm trúng chỏm mũ Khắc Xương. Khắc Xương nhổ chính mũi tên đó, bắn trả, cũng trúng chỏm mũ đối phương. Nguyễn Thọ vẫy quân xông lên. Hai bên xô xát dữ dội. Khắc Hài kiếm trong tay, đâm chém quyết liệt.
Bỗng phía hậu quân của Nguyễn Thọ, Khắc Hài nháo nhác rồi xuất hiện một viên tướng đánh thốc lên, đó là Trần Công Vụ. Công Vụ lắp tên, nhằm kỹ Nguyễn Thọ: – Xem ta trả mối hận ngày trước ở Giảng Võ đây!- Công Vụ nói và bắn ngay, Nguyễn Thọ không kịp đề phòng, bị tên trúng vai, cứ thế đeo tên mà chạy.
Quân sĩ quá ít, Khắc Hài đành bế “Hoa Khê vương” thúc ngựa chạy về hướng Đông Hà. Quân triều đình đuổi riết phía sau. Biết không thể thoát, Khắc Hài quay lại quyết chiến, bị Hữu Vĩnh đâm một nhát giáo trúng đùi, quân sĩ ùa lại bắt được Khắc Hài và “Hoa Khê vương”. Tương Dực giết cả hai đồng thời sai người về quê Khắc Hài, bao nhiêu người trong gia đình giết hết, chỉ trừ Bạch Yến. Nguyễn Nhữ Vi vì đã đưa Khắc Hài trở lại cung nên bị giáng xuống làm Hộ thảng Thái giám, hạng á đẳng. Cùng lúc ấy, có tin cấp báo Trần Tuân dẫn mấy vạn quân từ Sơn Tây kéo về kinh đòi trả thù cho Trần Hoàng hậu.
*
Sơn Tây, Hưng Hoá tuy rộng nhưng phần nhiều là đồi núi, ruộng nương ít nên cứ vào giáp hạt người lại nườm nượp kéo về Đông Kinh ăn xin, năm ấy lại bị nạn châu chấu, mùa màng mất sạch. Kho tàng hai nơi này không phải là không có thóc gạo nhưng muốn mở kho cứu đói phải được phép của triều đình, chẳng may triều đình lại gặp lúc rối loạn nên tấu tâu lên mà không có lệnh đưa xuống. Đói quá, dân chúng nhiều nơi đánh liều phá kho, quan quân bắt được, nhẹ thì trừng trị bằng roi vọt, nặng thì xử chém, nhưng không ít kẻ trốn được và tụ tập nhau thành từng đám cướp phá các nơi. Trần Tuân liền dựa vào rừng núi hiểm trở, tập hợp chúng lại, biết Tuân là hảo hán ở đời nên chúng theo rất đông, bao nhiêu kho tàng trong vùng chỉ trong hai, ba ngày bị lấy đi không còn một hạt thóc, đã vậy nhiều quan lại địa phương do ngăn cản nên bị trừng trị. Trần Tuân nói: “Ta là con cháu nhà Trần, thiên hạ đáng lẽ là của nhà Trần ta. Xưa Bình Định vương tuy có công dựng cờ nghĩa nhưng lúc đầu vẫn phải mời người nhà Trần lên ngôi mới giành lại được giang sơn. Nay khí số nhà Lê sắp hết, ta chính do trời sai xuống đây phục hưng lại nhà Trần”. Người các nơi nghe nói kéo tới Sơn Tây, Hưng Hoá tới hàng nghìn. Trần Tuân đặt bộ thự, lập tướng văn tướng võ, cát cứ cả một vùng rộng lớn.
Tuân cho người liên hệ với Trần Chân ở Thạch Thất cũng thuộc trấn Sơn Tây và Trần Cảo ở Đông Triều trấn Hải Đông, hẹn ngày cùng kéo quân về kinh đô. Trần Chân nổi giận: “Tuân tuy cùng họ với ta nhưng chẳng qua chỉ là một tên võ biền mang thói trộm cướp, ta đường đường thế này sao lại chịu làm tướng cho hắn!”. Trần Cảo thì đang ốm nên lưỡng lự không trả lời.
Nghe kinh đô có biến và Trần Hoàng hậu chết một cách thê thảm, Trần Tuân đau xót vô cùng, liền xé khăn trắng cho quân sĩ để tang rồi không chờ Trần Chân, Trần Cảo có hưởng ứng hay không, kéo toàn bộ binh lực Hưng Hoá thẳng hướng Đông Kinh, dọc đường dân chúng đi theo rất đông, đần dần đông tới hàng vạn người, toàn đám người rách rưới đói khát oán giận triều đình nên hết sức hung hãn. Tuân thu hết ngựa của mấy trại gần đấy như Tản Viên, Ba Vì, Tam Đảo nên không những quân bộ của Tuân đông mà quân kỵ cũng ngàn ngàn, đi đến đâu tiếng ngựa hí, tiếng người, tiếng binh khí chạm vào nhau nghe đinh tai, gươm giáo rờm rợp một góc trời, bụi cuốn mù đường. Chỉ trong hai ngày Trần Tuân đã từ Sơn Tây thẳng tới Từ Liêm, uy hiếp trực tiếp phía Tây kinh thành. Đó là mùa hè năm Hồng Thuận thứ 2, tức năm Canh Ngọ (1510).
Lúc này vua Tương Dực mới lên ngôi chưa đầy nửa năm, quân Thanh Hoa còn chân ướt chân ráo, triều đình lại vừa trải qua cái hoạ Nguyễn Khắc Hài, tuy không lớn nhưng lòng người không khỏi hoang mang, vì vậy trấn binh các xứ không dám động tĩnh. Trong khi ấy lại nghe đồn ngoại thích của Mẫn Lệ công trừ diệt chưa hết, đám Đông Ngàn và Thuỷ Đường đang tìm cách liên kết với nhau và cũng chuẩn bị kéo về kinh đô… Vậy là nháo nhác lên cả.
Nhà vua muốn lui về Thanh Hoa, trong lúc Nguyễn Văn Lang còn lưỡng lự chưa biết nên thế nào thì Trịnh Duy Sản tâu:
– Thiên hạ vừa mới lau nước mắt trông chờ vào vua mới vậy mà vua mới ngồi chưa nóng chỗ đã bỏ chạy thì thiên hạ khác nào vừa thoát khỏi miệng hổ đã lại rơi vào mõm chó sói. Thần tuy bất tài cũng xin được lãnh ấn tiên phong đánh giặc. Nghĩa Quốc công đã lập được công lớn diệt Mẫn Lệ, nay hãy nhường cái đầu Trần Tuân cho tôi.
Vua giao cho Trịnh Duy Sản quyền điều động toàn bộ binh mã ba vệ Vũ Lâm, Thiên Bồng, Thiên Vũ. Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ là Mạc Đăng Dung bàn: – Quân giặc hiện mạnh về khí thế nên cần đánh nhanh, ta lại cần kéo dài thời gian để chờ quân các trấn về ứng cứu. Vậy nên chớ vội tiến quân ngay mà nên giữ vững tuyến phòng thủ phía Tây sông Tô Lịch cho tới sông Cái, một mặt chờ quân tiếp viện, mặt khác cho khí thế của giặc xẹp đi, lúc đó dốc toàn lực thì chắc thắng. Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Bồng là Đàm Cử nói:
– Cách của ông Dung là dở! Binh pháp có dạy: “Lấy kẻ nghỉ ngơi đánh người mệt mỏi”. Nay quân Sơn Tây đường xa tới đây đang mệt mỏi, quân triều đình thì lâu nay nhàn hạ, không đánh lúc này thì đánh lúc nào. Đô Chỉ huy sứ vệ Vũ Lâm là Cù Khắc Xương bảo:
– Giặc là lũ đói khát, gặp được Từ Liêm là vựa lúa phía Tây kinh thành, bây giờ lại tháng 5 đang vào mùa gặt, chúng khác nào chuột sa chĩnh gạo. Mạc tướng quân định chờ cho giặc ăn cơm gạo mới thơm ngon no bụng rồi mới đánh chăng? Tướng quân quen đi khơi, chỉ biết nước lên nước xuống, thật chẳng biết mùa màng thế nào! Theo tôi sáng mai nên tiến quân.
Trịnh Duy Sản bảo: “ý ông Đàm Cử, ông Khắc Xương thật hợp ý ta.” và lệnh cho ba quân chuẩn bị hôm sau tiến quân. Sáng hôm sau quân triều đình vượt sông, trống dong cờ mở, đi đến đâu quân Trần Tuân lui đến đấy nên trong bụng ai cũng lấy làm hả hê. Tới gần Sơn Tây, thấy hai bên đường rừng cây um tùm, Mạc Đăng Dung liền từ phía sau thúc ngựa vượt lên trước, bảo Duy Sản: “Chỗ này địa thế hiểm yếu, tướng quân phải cẩn thận”, vừa dứt lời thì một tiếng pháo rung chuyển mặt đất, quân Trần Tuân từ bốn phía đổ ra đông cơ man mà kể, kẻ phóng lao người bắn tên bắn nỏ. Quân triều đình kinh hoàng quay hết về phía sau mà chạy, tổn thất không biết bao nhiêu mà kể. Quân giặc có kẻ nói Duy Sản khoác áo đỏ vậy là Trần Tuân cứ nhằm người mặc áo đỏ mà đuổi. Y vừa mới có con Xích câu cướp được của trại ngựa Ba Vì, sức còn non nên hăng và rất khoẻ, do vậy chẳng mấy chốc đã đuổi sát Duy Sản. Duy Sản tuy là tướng võ nhưng liệu sức không địch nổi Trần Tuân nên chỉ biết chạy, càng chạy càng thấy tiếng Tuân quát sau lưng mỗi lúc một gần. Sản luống cuống vướng cả áo vào bụi gai, đang lúng túng gỡ áo thì Tuân sáp lại. Bỗng bên đường một người cưỡi con ngựa trắng chắn ngang mặt Trần Tuân. Duy Sản vứt cái áo lại, thoát được. Tuân nhận ra đó là Mạc Đăng Dung. Họ đã biết nhau mấy năm trước tại cuộc thi võ thời vua Đoan Khánh. Trần Tuân gỡ lấy cái áo của Duy Sản mắc trên cành cây rồi quay ngựa. Đăng Dung cũng không ham chiến quay về trại.
Quân triều đình thua to. Đàm Cử, Cù Khắc Xương xấu hổ không dám nhìn Mạc Đăng Dung. Duy Sản chia lực lượng làm hai đóng ở Đông Ngạc và Nhật Chiêu để ứng cứu cho nhau, có ý cố thủ chờ quân cứu viện.
Tương Dực lại một lần nữa bàn rút vào Thanh Hoa. Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang tâu: – Trịnh Duy Sản đã làm mất hết nhuệ khí cuả triều đình, tội đáng chém đầu. Giặc nay tuy đã tới cửa ngõ kinh thành nhưng nhờ các tướng cố sống cố chết chặn chúng lại nên chúng vẫn còn cách bờ Tây sông Tô Lịch một đoạn xa. Ta nên huy động toàn bộ lực lượng, kể cả quan binh các xưởng đóng thuyền, đúc tiền, đóng gạch của Bộ Công, bày trận bên này sông Nhị Hà (*), bao nhiêu cờ xí cho cắm hết, đêm ngày trống mõ vang lừng nghi binh khiến giặc không rõ thực hư thế nào, tưởng quân các xứ đã về cứu giá. Cố gắng cầm cự, chờ các nơi về, thể nào cũng lui được giặc.
Nguyễn Hoằng Dụ bàn: – Trần Tuân chỉ vì muốn trả thù cho Trần thị mà làm phản, nay ta cho triều đình để tang theo nghi thức Hoàng thái hậu rồi cho người mang bài vị và khéo ăn nói trại giặc phủ dụ, có khi Tuân nghe ra mà lui binh. Trước mắt như thế rồi sau sẽ liệu.
Vua làm theo cách của Hoằng Dụ. Trần Tuân nhận bài vị Trần Hoàng hậu, tế lễ xong, chẳng những không rút quân mà còn thúc quân đánh mạnh hơn. Đôi bên đánh nhau một trận lớn, xác thuyền xác người ngập cả một đoạn sông Tô Lịch, sông Nhĩ Hà, thuyền bị đốt cháy lửa khói nghi ngút ngày đêm. Một đêm Minh Luân bá Lê Niệm, Thái giám Lê Văn Huy và hai lực sĩ ở ti
Hải Thanh và Hà Thanh chèo thuyền sang sông Tô Lịch để dò la tình hình giặc, lúc này mới hay bao nhiêu phố xá quanh chợ An Gia đều cháy hết, xã Quả Hối không còn một nóc nhà. Họ tìm được bọn Duy Sản ẩn náu ở một nghĩa địa, thấy thủ hạ Duy Sản chỉ còn còn chưa đầy 30 người, bọn Lê Niệm khuyên Duy Sản rút về kinh thành. Duy Sản nói:
– Ba mươi người trong tay tôi là ba mươi kiện tướng, một người địch nổi trăm người. Hãy nhìn xem Mạc Đăng Dung, Đàm Cử, Cù Khắc Xương đây là những người như thế nào? Chúng tôi quyết không về. Hẹn khi nào nổ ba tiếng pháo thì đại quân triều đình sang sông.
Thấy Duy Sản khảng khái vậy, hai lực sĩ ở ti Hải Thanh, Hà Thanh cũng xin nguyện ở lại. Lê Niệm, Lê Văn Huy về báo cho nhà vua biết tình hình. Tương Dực đứng ngồi không yên. Trong khi ấy bọn Duy Sản ăn thề và xé một bên tay áo làm dấu hiệu để nhận ra nhau, đợi cho chiều tối mới bí mật tiến về phía trại giặc, giả giọng người Sơn Tây, lừa bắt được mấy tên lính của Trần Tuân, bắt bọn này chỉ Tuân ở trại nào. Đến nơi, thấy Trần Tuân mình khoác cái áo đỏ cướp được của Duy Sản hôm trước, đầu đội khăn trắng để tang Trần Thái hậu, đang ngồi trên giường bàn việc với mấy viên tướng. Bọn Duy Sản nhất tề xông vào, Tuân không kịp đề phòng, bị Duy Sản đâm chết, mấy tướng giặc kẻ bị đâm chết, kẻ bỏ chạy. Một lúc sau chúng quay lại đông không biết bao nhiêu mà kể, đuốc cháy rực trời. Duy Sản giơ cao đầu Trần Tuân, quân giặc có kẻ bỏ chạy nhưng cũng có kẻ liều chết xông vào. Duy Sản nổ ba tiếng pháo làm hiệu. Bên kia sông, thấy pháo hiệu, Nguyễn Văn Lang, Hữu Vĩnh dốc toàn bộ lực lượng, bao nhiêu ngựa voi sang sông hết, quân Trần Tuân thua to. Quân triều đình đuổi tới Thuỵ Hương, Tảo Động, Đông Ngạc, quân của Tuân bị giết và bị chết đuối rất nhiều. Tướng của Trần Tuân là Nguyễn Nghiêm đóng ở thành Sơn Tây bỏ chạy khỏi thành , bị Mạc Đăng Dung đuổi theo giết chết.
Anh em con cháu Trần Tuân phải bỏ nhà bỏ cửa, đổi tên họ tản đi khắp các xứ. Từ đó tình hình mới yên. Bàn định công lao các tướng, Tương Dực thăng Trịnh Duy Sản làm Nguyên Quận công, đứng đầu các Quận công. Năm sau, sử quan Lê Hy do bất mãn, chạy vào Nghệ An rồi cùng với Lê Minh Triệt nổi loạn, Duy Sản lại được sai mang quân đi đánh dẹp, trở về kinh sư, chỉ ít ngày lại lên đường tiễu phạt Phùng Chương ở Tam Đảo. Duy Sản đánh đâu thắng đấy, từ đó được vua tin cậy giao cho giữ vệ Cẩm Y, chỉ huy cấm binh.
*
Họ hàng, gia đình nhà Nguyễn Khắc Hài mấy chục người bị đóng gông bỏ cũi đưa từ Thuỷ Đường về kinh đô, chỉ riêng Bạch Yến không bị cũi; tất cả đều bị chém, đầu bêu cửa chợ, cũng chỉ riêng Bạch Yến được tha mạng và đưa vào cung. Tương Dực đế hỏi: – Ngươi có biết vì sao trẫm lại tha cho ngươi không?
– Tâu bệ hạ, thần thiếp đội ơn bệ hạ… – Ngươi có muốn hầu hạ trẫm không? – Thiếp được sống đã là may mắn lắm. Còn như hầu bệ hạ thì thiếp không dám vì thiếp giờ đã là gái có chồng có con, thân thiếp đã nhơ nhuốc, người thiếp đã xấu xí, không xứng với bệ hạ. Trước nữa thiếp lại trót hầu vua Hiến Tông nên sợ làm điều không phải. Chẳng phải thiếp nghĩ cho thiếp mà chỉ nghĩ cho bệ hạ vì thiếp như thân con lươn nào còn sợ lấm đầu.
– Khanh không ngại những chuyện ấy, kẻ nào dám dị nghị, ta chém đầu. Lê phi chẳng từng là vợ Đoan Khánh đấy sao. Nghe nói ngày trước Hiến Tông yêu nàng lắm có phải không? Lại gần trẫm đây. – Tương Dực đế kéo Bạch Yến vào lòng – Chà! Không trách cha ta có bao nhiêu cung tần mỹ nữ mà chỉ say đắm mỗi nàng. Cha ta thích những ai béo tốt, khoẻ mạnh, ta cũng vậy. Khanh có biết từ “mỹ nữ” có nghĩa là như thế nào không? “Mỹ” là đẹp, tất nhiên rồi. Nhưng chính nghĩa của “mỹ” là tốt tươi, với con người thì là béo tốt. Khanh chính là mỹ nữ. Xem ngực khanh đây này, đầy cả bàn tay trẫm! Bạch Yến làm bộ ngúng nguẩy:
– Bệ hạ chê thiếp sồ sề chứ gì? Từ khi sinh nở người thiếp không còn giữ được gọn gàng, với lại tuy không phải làm gì vất vả nhưng ở quê nắng nôi ao tù nước đọng nên da dẻ thiếp cũng xấu đi. Giá như thiếp biết trước bệ hạ cũng yêu thiếp thế này thì… – Thì sao?
– Thì ngày trước thiếp đã không chạy đi Thuỷ Đường mà chạy ngay tới … phủ Giản Tu công! – Khanh dí dỏm lắm. Ngày trước khanh mà chạy tới chỗ trẫm thì con sư tử Hà Đông của trẫm nó xé xác! Còn bây giờ dẫu trẫm có bao nhiêu cung tần mỹ nữ nó cũng không dám làm gì. Trẫm đang buồn vì Hoàng hậu chỉ sinh được cho trẫm ba công chúa, các phi tần khác hàng trăm người hầu trẫm mà chưa một ai mang thai! Lê phi cũng vậy. Thầy bói bảo trẫm phải chung đụng với ai đã từng có con mới được. Khanh chớ quá buồn vì trẫm đã hại Hoa Khê vương Tùng, con nàng. Việc phải thế vì Khắc Hài đã đánh lừa trẫm, lại làm phản, dựng Tùng làm vua giả nên dù Tùng là con của Hiến Tông cũng không để cho sống được. Khanh không có tội, vì vậy trẫm vẫn để yên cho gia đình, họ hàng của khanh ở Đồ Sơn. Rồi khanh sẽ có những đứa con khác với trẫm.
Bạch Yến nín lặng, chồng chết, con chết, nàng rất buồn, lại càng sợ khi Khắc Hài dám bạo gan nói con của nàng với người anh trưởng của y là con Hiến Tông! May sao vua Hồng Thuận chưa biết chuyện ấy. Bây giờ, tâm sự của nhà vua làm nàng thêm mừng vì hình như nàng đã có mang đứa thứ hai. Chỉ gia đình nhà chồng nàng biết, nhưng tất cả giờ đã không còn một ai. Nếu cái thai sau này sinh ra là con trai và được nó làm vua, nàng sẽ trở thành Hoàng thái hậu. Trên đời này ai mà chẳng muốn sống, lại được sống trong vinh hiển thì ai chẳng mong.
Bạch Yến nũng nịu ngả người trong lòng vua, khẽ thở dài. – Sao nàng lại thở dài? – Thiếp nghĩ thương cho bệ hạ, đến giờ mà hoàng hậu và các phi tần, kể cả Lê Quý phi vẫn không làm cho bệ hạ vui. Thiếp mong mình sẽ khác với họ. Nhưng nếu thiếp đem tin vui đến cho bệ hạ thì bệ hạ phải phong cho thiếp làm phi cơ.
– Được, lúc đầu trẫm sẽ phong cho nàng làm Quý tần, đứng đầu cửu tần, rồi sau hẵng hay. – Với lại thiếp không muốn giữ cái tên Bạch Yến nữa. Cái tên ấy ai cũng biết là từng gắn bó với vua Hiến Tông. Mà bệ hạ cũng cần xoá ấn tượng ấy, vậy nên bệ hạ đổi tên cho thiếp đi. Tương Dực nghĩ một lúc rồi bảo: – Ta đặt cho nàng tên là Phi Yến, được không?
– Giống tên cái nàng Phi Yến của Hán Thành đế à? Thôi được, thiếp nhận. Bạch Yến ôm ghì lấy cổ Tương Dực đế rồi đưa tay xuống bụng nhà vua, khúc khích cười.
——————————————– (*) Tên sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội, do tới đây sông phân làm hai nhánh. Cũng có tài liệu viết là Nhĩ Hà. |
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.