- Đang online: 3
- Hôm qua: 960
- Tuần nay: 20718
- Tổng truy cập: 3,371,594
NGUYỄN TRÃI (1380 – 1442)
- 543 lượt xem
NGUYỄN TRÃI
(1380 – 1442)
1
Khi nói đến Nguyễn Trãi,
Là nói đến người hiền,
Một nhà văn hóa lớn
Và vụ Lệ Chi Viên.
Ông xuất thân cao quí,
Con của Nguyễn Phi Khanh,
Cháu ngoại Trần Nguyên Đán,
Rất giỏi đường học hành.
Ông sinh ở Chí Ngại,
Huyện Chí Linh, Hải Dương,
Sau chuyển về Thường Tín,
Sống cuộc sống dân thường.
Khi nhà Hồ thành lập,
Bố ông ra làm quan,
Đứng đầu Quốc Tử Giám,
Được xem là công thần.
Cùng lúc ấy Nguyễn Trãi
Thi đỗ Thái học sinh,
Được bổ làm Chính Chưởng
Nhờ uyên bác, thông minh.
Khi nhà Hồ sụp đổ,
Cùng nhiều quan hàng đầu
Bố ông bị giặc bắt
Rồi đưa về nước Tàu.
Từ một bốn không bảy
Ông phiêu bạt đó đây.
Không ai biết Nguyễn Trãi
Làm gì thời gian này.
Năm một bốn một sáu,
Trong Hội thề Lũng Nhai,
Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi,
Anh tài gặp anh tài.
Ông đã trình Lê Lợi
Ba lời khuyên Bình Ngô,
Hết lòng giúp minh chúa
Xây dựng lại cơ đồ.
Ông là quân sư giỏi,
Một nhà ngoại giao tài,
Người có công rất lớn
Đưa Lê Lợi lên ngai.
2
Khi công thành danh toại,
Triều nhà Lê, tiếc thay,
Bắt đầu chia phe cánh,
Mâu thuẫn tăng hàng ngày.
Năm một bốn hai chín,
Trần Nguyên Hãn quyên sinh
Khi Lê Lợi xuống chiếu
Bắt giam người bạn mình.
Nghe lời bọn xu nịnh,
Vua giết bạn thứ hai
Là tướng Phạm Văn Xảo,
Liêm khiết và có tài.
Rồi nhiều công thần khác,
Liên quan hai người này,
Cũng bị giết thê thảm,
Kêu trời, trời có hay.
Đại công thần Nguyễn Trãi
Cũng bị vua giam cầm,
Xem thường, không sử dụng
Và quên lãng nhiều năm.
Khi Lê Thái Tổ mất,
Lê Thái Tông lên thay,
Nguyễn Trãi được trọng dụng,
Dạy cho ông vua này.
Nhưng rồi lại phe cánh,
Lại chước quỉ mưu ma,
Nguyễn Trãi lại thất sủng
Vì những lời gièm pha.
Năm một bốn ba tám,
Ông lui về Côn Sơn,
Điền trang của ông ngoại,
Giữa rừng thông xanh rờn.
Và rồi cuối cùng đến
Cái án được lưu truyền
Như tiếng kêu oan ức –
Vụ án Lệ Chi Viên.
Năm bốn hai, tháng Chín,
Hai mươi tuổi, Thái Tông
Cùng một đoàn bộ xậu,
Đi tuần ở miền Đông.
Đến Chí Linh, Nguyễn Trãi
Mời vua ghé chơi chùa.
Lúc về, nàng Thị Lộ
Ông cho theo hầu vua.
Nguyễn Thị Lộ lúc ấy
Đã bốn mươi tuổi đời,
Là thiếp của Nguyễn Trãi,
Đa tình và xinh tươi.
Phần vì đẹp, khéo nói,
Phàn vì tài văn chương,
Bà được vua gần gũi
Và yêu quí khác thường.
Giữa đường vua dừng lại
Ở quán Lệ Chi Viên,
Tức là quán Vườn Vải,
Nghỉ ngơi và định thiền.
Đêm hôm ấy, bất chợt
Vua đổ bệnh, qua đời.
Chỉ một mình Thị Lộ
Luôn túc trực bên người.
Đến nay vẫn chưa biết
Vì sao vua băng hà.
Chỉ hai người, vua chết
Bên bà, hay trên bà?
Rồi bà và Nguyễn Trãi
Bị buộc tội tày trời,
Lệnh tru di tam tộc,
Giết ba họ, ba đời.
Mười mấy ngày sau đó,
Lệnh đã được thi hành.
Nguyễn Trãi cùng ba họ
Bị nhà Lê hành hình.
Một anh hùng dân tộc,
Một khai quốc công thần
Đã bị giết thế đấy,
Vô lý và bất nhân.
Ngẫm mà thương số phận
Của các bậc đại thần
Cái thời mông muội ấy,
Cái thời vua hôn quân.
Phù vua và cứu chúa,
Để đưa vua lên ngai.
Vua nhỏ nhen, quay lại
Giết các bậc hiền tài.
Sau khi Nguyễn Trãi chết,
Các tác phẩm của ông
Bị đốt sạch, phá sạch –
Một cảnh tượng đau lòng.
Những áng thơ tuyệt đẹp
Của một đại thi nhân
Bị biến thành tro bụi
Như xưa ở nước Tần.
Hăm hai năm sau đó,
Lê Thánh Tông lên ngôi,
Minh oan cho Nguyễn Trãi,
Nhưng cũng việc đã rồi.
3
Có truyền thuyết kể lại,
Bố ông, Nguyễn Phi Khanh,
Xưa làm nghề dạy học,
Định cuốc vườn cỏ gianh.
Đêm ông mơ, bất chợt
Có một người đàn bà
Dẫn theo một lũ trẻ
Đến nằn nì xin tha.
Bà xin ông hoãn lại
Thư thư một vài ngày
Để bà tìm chỗ mới
Đi khỏi khu vườn này.
Sáng dậy ông đã thấy,
Lúc dọn vườn, học trò
Giết chết một bầy rắn.
Ông giật mình, thấy lo.
Tối ấy, khi đọc sách
Có con rắn để rơi
Từ trên xà giọt máu,
Rơi xuống đúng chữ “đời”.
Giọt máu trên cuốn sách
Thấm xuống đúng ba trang.
Ông lờ mờ chợt hiểu,
Ngồi lặng yên, bàng hoàng.
Về sau con rắn ấy,
Với ý định trả thù,
Biến thành Nguyễn Thị Lộ,
Đưa ba họ vào tù.
Khi bà Nguyễn Thị Lộ
Bị dìm chết dưới sông,
Bà lại thành con rắn,
Lẩn trốn dưới đám rong.
Theo các nhà sử học,
Truyền thuyết này lạ đời.
Do nhà Lê bịa đặt
Để lừa dối mọi người.
Sự thật thì vụ án
Do nhà Lê gây ra
Do tranh giành quyền lực
Trong nội bộ hoàng gia.
Chỉ oan cho Thị Lộ,
Phi lý và bất ngờ.
Một vụ án oan khuất.
Đau đến tận bây giờ.
Tác giả THÁI BÁ TÂN
(Ảnh Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ
do mactoc.com lấy từ Google)
doTHƠ NGUYỄN TRÃI
Tiếng chày đập vải mùa thu ở xóm nhỏ
Tiếng chày đập vải rộn khắp sông.
Đêm vắng, khách nghe chợt chạnh lòng.
Vợ người lính ải vào tiếng nện
Gửi hết tâm tư nỗi nhớ chồng.
Buổi chiều đứng trông
Bao la trời rộng, nước bao la.
Cuối thu, lá đỏ rụng quanh nhà.
Mang nặng việc đời, chưa ẩn dật.
Thèm thành chim trắng lượn bên hoa.
Thơ đề ở Vân Oa
Nắng chếch rèm thưa, giường sách đầy.
Ngoài vườn gió thổi, trúc lung lay.
Rỗi, chẳng làm gì, ôm gối ngủ.
Cửa sổ, tất nhiên, mở suốt ngày.
Ngẫu hứng
Đời là giấc mộng, thật mong manh.
Tỉnh mộng, than ôi, việc chẳng thành.
Những muốn suốt đời ngồi đọc sách
Bên dòng suối nhỏ, giữa rừng xanh.
Giấc mộng trong núi
Quanh động Thanh Hư trúc mọc dày.
Suối như màn kính, gió lung lay.
Đêm qua trăng sáng trong giấc ngủ,
Mơ cưỡi hạc vàng bay lên mây.
Bến đò xuân đầu trại
Cỏ xuân đầu bến rối như mây.
Lại mưa, sông nhỏ nước dâng đầy.
Con đường bên cạnh dài heo hút.
Gối bãi, thuyền côi ngủ suốt ngày.
Cuối xuân tức cảnh
Cánh cửa phòng văn đóng suốt ngày.
Khách tục không hề bước đến đây.
Chim quyên buồn hót thương xuân muộn.
Ngoài vườn hoa nở, mưa lây rây.
Nghe mưa
Phòng tối, đêm tĩnh lặng,
Ngồi nghe mưa một mình.
Mưa não nề, buốt lạnh,
Rơi thánh thót năm canh.
Tiếng chuông như ngái ngủ,
Bên cửa, trúc rùng mình.
Thơ đọc mãi, khó ngủ,
Thức tới rạng bình minh.
Gửi bạn
Vất vả quanh năm, chán sự đời.
Mọi việc đành cam phó mặc trời.
Tấc lưỡi đang còn, còn nói được.
Thân còm chưa chết, chỉ nằm chơi.
Vụn vặt thời gian trôi, khó giữ.
Quán trọ đêm đêm lạnh đất người.
Đọc sách mười năm mà kiết xác,
Ăn toàn rau củ để cầm hơi.
Đêm thu khách cảm
Treo chiếu làm mành, quán trước thôn.
Ủ tay đọc sách buổi hoàng hôn.
Gió thổi lá rơi, thương lữ khách.
Đêm mưa, đèn lạnh, giấc mơ buồn.
Sau loạn, người quen không thấy nữa.
Buồn nhìn đau đớn cảnh càn khôn.
Cuối cùng muôn việc đều hư ảo,
Nói chi Phàm, Sở mất hay còn.
Ngày hạ ngẫu tác
Gia truyền chỉ có tấm chăn xanh.
Loạn ly, may được sống yên lành.
Xưa nay mọi việc do trời định.
Đời người, giấc mộng cứ trôi nhanh.
Nửa giường gió mát tha hồ ngủ.
Một vò rượu trắng vợi lòng anh.
Duy vẫn nhớ quê, mong lại được
Quay về sông núi, mái nhà tranh.
Sau loạn, đến Côn Sơn, cảm tác
Mười năm thấm thoắt đã xa nhà.
Quay về, tùng rậm, cúc ra hoa.
Có hẹn với rừng mà nhỡ hẹn.
Cúi đầu, chỉ biết trách mình ta.
Làng quê quen thuộc mà như lạ.
Thân còn nguyên vẹn buổi can qua.
Bao giờ được dựng lều trên núi,
Múc nước khe sâu để uống trà?
Đêm đậu thuyền ở cửa biển
Xa nhà đã mấy chục năm nay.
Đêm buộc thuyền thơ ở bến này.
Sóng gợn mênh mang, trăng chiếu lạnh.
Trên bờ cao thấp những lùm cây.
Ơn nước chưa đền, mai đã bạc.
Thời gian như nước tuột qua tay.
Lo trước vui sau, luôn nghĩ ngợi.
Chăn lạnh ngồi ôm đến rạng ngày.
Ngẫu nhiên viết thành thơ
Làm quan mà rỗi, sướng thân ta.
Chẳng thiết giao du, cứ ở nhà.
Sáng dậy đốt trầm, mây sát cửa.
Tùng reo bên gối, tối pha trà.
Chăm chỉ tu thân, làm việc thiện.
Đọc nhiều mụ óc, chóng thành ma.
Cái bệnh suốt đời không thực tế,
Về già có vẻ nặng thêm ra.
Đêm thu ở đất khách, cảm hứng
Xạc xào tiếng gió thổi cành cây.
Làm buồn lòng khách bấy lâu nay.
Lá úa vàng sân hơn quá nửa.
Đèn xanh mưa hắt mấy canh chầy.
Bệnh lắm, xương còm nên ngủ ít.
Việc quan nhàn nhã cũng thành hay.
Bớt nghĩ một điều, thêm một sướng.
Được thua không tính nữa từ nay.
Tức cảnh
Hiên, song đều nhỏ, cảnh thanh bần.
Nhà quan mà chẳng khác nhà dân.
Dưới cây đọc sách, lòng thanh thản,
Trên sông câu cá, thú an nhàn.
Mưa tạnh, hơi thu xuyên cửa sổ.
Gió chiều, lá rụng, múa ngoài sân.
Nằm khểnh bên song, không lụy tục,
Thư thái lòng ta chẳng vướng trần.
Ngẫu hứng trên thuyền
Sau mưa, cửa biển nước dâng cao.
Gió ru muôn sóng, biển rì rào.
Nửa rừng chiều xế như rây khói.
Chuông làng lay động ánh trăng sao.
Phong cảnh chiều người, thơ có họa.
Mải ngắm non sông, rượu rót trào.
Những chuyến chơi xưa đều nhớ hết.
Việc đời muốn nhớ, chỉ chiêm bao.
Tiếp > |
---|
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.