- Đang online: 1
- Hôm qua: 815
- Tuần nay: 17571
- Tổng truy cập: 3,369,563
HỘI THẢO KHOA HỌC
- 14 lượt xem
HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM THẾ KỶ XVI
Toàn cảnh Hội thảo:
Sáng nay 22/11/2024, tại Trung tâm Hội nghị thành phố Hải Phòng, Ban Vận động UNESCO vinh danh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhân kỷ niệm 450 năm ngày mất của Người (1585 – 2035) đã long trọng tổ chức Hội thảo Khoa học TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM THẾ KỶ XVI.
Hội thảo đã quy tụ gần trăm giáo sư, tiến sỹ khoa học, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu lịch sử tham dự Hội thảo và gửi 26 bản báo cáo tham luận tới Ban tổ chức Hội thảo.
Phó Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Lê Khắc Nam, đại diện lãnh đạo Thành ủy, UBND TP. Hải Phòng đã tới dự và phát biểu khai mạc Hội thảo. Đại diện Thường trực Hội đồng Mạc tộc Hải Phòng gồm các ông: TS. Hoàng Văn Kể, Chủ tịch HĐMT Hải Phòng; ông Mạc Đăng Sỹ, Phó Chủ tịch và ông Hoàng Sơn Hiền, Chánh Văn phòng đã tham dự theo lời mời của Ban tổ chức Hội thảo.
Sau báo cáo đề dẫn của TS. Trần Thị Hoàng Mai, Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao TP. Hải Phòng là 5 báo cáo tham luận được chọn lọc trình bầy trực tiếp tại Hội thảo:
- GS.TSKH.NGND. Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội: “Nguyễn Bỉnh Khiêm một vĩ nhân trong lịch sử Việt Nam”;
- TS. Lê Quang Chắn, Phó Viện trưởng Viên Sử học Viện HLKHXH Việt Nam: “Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI”;
- GS.TS.NGND. Nguyễn Quang Ngọc, PCT Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: “Nguồn lực và sức sống mới trên quê hương Trạng Trình thế kỷ XVI”;
- TS. Hoàng Văn Kể, nguyên PCT UBND TP. Hải Phòng – Chủ tịch HĐMT Hải Phòng: ” Nguyễn Bỉnh Khiêm với Nhà Mạc”;
- PGS.TS. Nguyễn Minh Đức, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Quân sự Dân tộc – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng: “Tư tưởng quân sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm”;
Và 6 ý kiến tham gia thảo luận trực tiếp tại Hội thảo:
- GS. Nguyễn Chí Bền, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam;
- TS. Phạm Văn Ánh, Phó Viện trưởng Viện Văn học Viện HLKHXH Việt Nam;
- TS.Nguyễn Văn Sơn, Phó Tổng thư ký Hội KHLS Việt Nam;
- GS.TS. Từ Thị Loan, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Viên Văn hóa, Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam; Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia;
- Ông Phạm Xuân Thanh, Chủ tịch Hội KHLS Hải Phòng;
- TS. Phạm Hữu Thư, PCT Liên hiệp các Hội KHKT Hải Phòng;
Xin đăng toàn văn bản tham luận của TS. Hoàng Văn Kể tại Hội thảo:
NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỚI NHÀ MẠC
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 quê làng Trung Am, tổng Lý Học, huyện Vĩnh Lại, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng. Ông là nhà văn hoá lớn, nhà thơ, bậc hiền triết với kiến thức uyên thâm nhiều lĩnh vực; người thầy, cây đại thụ toả bóng gần suốt cả thế kỷ XVI trong lịch sử của dân tộc.
Trong suốt nhiều thập kỷ qua trên phạm vi cả nước, trong đó có Hải Phòng, quê hương ông đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, sử học, triết học, văn học; nhiều hội thảo khoa học được tổ chức hàng trăm bài viết, bài tham luận đề cập tới hầu như tất cả mọi tài năng và bản lĩnh của Tuyết Giang Phu Tử. Từ việc xác định nhân cách lịch sử của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thái độ ứng xử ung dung, tự tại của ông với các tập đoàn phong kiến Mạc, Lê – Trịnh, Nguyễn. Từ cách lý giải những quan điểm triết học mà Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm trong văn thơ hay triết lý về chữ “Nhàn”; tư tưởng dịch lý; từ việc đánh giá cảm hứng nghệ thuật của ông trên các vấn đề chiến tranh, thế sự, đạo lý hay thái độ đồng tình của người dân cùng khổ … Cho đến những tìm tòi, phát hiện khoa học về sự đóng góp tích cực của Cụ Trạng đối với tiến trình phát triển của nghệ thuật thơ nôm; cho đến ngay cả việc lý giải những lời tiên tri, những câu ca, vè chứa nhiều ẩn ý được người đời truyền tụng đều được coi là những lời sấm truyền của cụ Trạng. Trong đó có cả những nghiên cứu, những bài viết về “Mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với Vương triều Mạc”, hay “Thái độ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với Nhà Mạc, với Mạc Đăng Dung” cũng đã được nghiên cứu rất công phu, đánh giá khách quan, được diễn giải khá sâu sắc.
Trong bài viết này, trong phạm vi kiến thức có hạn, tôi chỉ xin phụ hoạ thêm một vài khía cạnh về mối quan hệ “Nguyễn Bình Khiêm với Nhà Mạc” đã được các bậc tiền bối rất dày công đi tìm sự thật, công lý và cả sự công bằng lịch sử cho cả cụ Trạng, cả Vương triều Mạc và Thái tổ Hoàng đế Mạc Đăng Dung.
- Vùng đất địa linh, sinh ra nhân kiệt, thời thế tạo anh hùng.
Vùng đất Nghi Dương xưa (Kiến Thuỵ nay), Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo) cùng với Đồ Sơn, An Dương, Thuỷ Nguyên, Cát Bà nay làm nên địa danh hành chính Hải Phòng nay, vốn xa xưa là vùng đất bồi bởi 6 con sông lớn từ thượng nguồn đổ về, qua vùng đồng bằng rộng lớn mang theo phù sa đỏ mịn bồi đắp nên (sông Bạch Đằng, sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Văn Úc, sông Thái Bình và sông Hoá). Mảnh đất này cũng được che chắn, bảo vệ bằng những dãy núi đá vôi cùng với rừng rậm ở phía Bắc, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ ở phía Đông Bắc. Các ngọn núi, quả đồi loáng thoáng, nhấp nhô ở phía Đông và phía Tây Nam tạo nên vóc dáng vùng đất long lượn, hổ phục, voi chầu. Cảnh quan thiên nhiên hoà hợp, thuận lợi cho con người sinh sống nơi đây. Mặt khác chính đây cũng lại là mảnh đất đầu sóng ngọn gió, hứng chịu trước tiên những cơn vần vũ thịnh nộ của thiên nhiên, biển cả, đại dương mỗi khi thời tiết, khí hậu chuyển mùa. Theo quy luật vận động của vũ trụ, đôi khi cũng chính do sự phá phách quá mức của con người. Đặc biệt với vị trí địa lý thuận lợi, các dòng sông lớn đan xen ăn sâu vào đất liền, rồi cùng nhau đổ ra biển cả, tạo thành những tuyến hàng hải gần, an toàn và thuận lợi nhất kết nối Đại Việt với các quốc gia lân bang phía Bắc và phía Đông Nam. Chính đây lại là điểm yếu nhất trong trường hợp có giặc ngoại xâm đánh chiếm nước ta theo hướng từ biển vào.
Chính vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, có núi non trùng điệp che chở, có cả rừng vàng, biển bạc với 6 con sông lớn chảy qua lúc hiền dịu, thanh bình mang đầy phù sa về bồi đắp, lúc hung giữ, gầm rú, gào thét như những con hổ dữ đã làm nên một vùng đất giầu có về tài nguyên, thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, bang giao, buôn bán. Bởi vậy mảnh đất này cũng luôn là nơi được các thế lực ngoại xâm nhòm ngó, gây hấn, xâm lược hòng chinh phục người dân bản địa, vơ vét của cải, tài nguyên mang về nước họ. Thực tế trong lịch sử đã chứng minh người dân Đại Việt, trong đó có quân, dân vùng đất Hải Tần đã 3 lần quyết chiến làm nên các chiến thắng lịch sử chống quân xâm lược vào thế kỷ thứ X và thế kỷ thứ XIII. Rồi đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp cũng vào nơi đây, kết thúc bằng đội quân viễn chinh xâm lược Pháp phải rời Hải Phòng vào ngày 13/5/1955, Hải Phòng giải phóng. Mảnh đất này tiếp tục phải hứng chịu mưa bom, bão đạn, chiến dịch vây hãm bằng thuỷ lôi của đế quốc Mỹ xâm lược khi tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cuối cùng cuộc chiến tàn khốc này cũng phải kết thúc sau khi quân, dân thủ đô Hà Nội và Hải Phòng làm nên một trận đại thắng “Điện Biên Phủ trên không” suốt 12 ngày đêm trong tháng 12 năm 1972.
Thiên nhiên giàu đẹp, cảnh quan hùng vĩ, cùng với truyền thống kiên cường bất khuất của con người vùng đất này, chống chọi với cả sự khắc nghiệt của thiên nhiên, cả các cuộc ngoại xâm, đã hun đúc nơi đây thành mảnh đất địa linh. Đây cũng chính là nhân quả của sự hy sinh, cống hiến, bồi đắp của các thế hệ con người sinh ra, lớn lên, làm rạng rỡ, rồi nằm xuống ngay trên mảnh đất này, đã bồi đắp thêm truyền thống hào hùng, tạo thêm khí thiêng cho vùng đất địa linh (Nghi Dương, Vĩnh Lại, An Dương, Hải An, Thuỷ Đường và Cát Bà) nay là vùng đất Hải Phòng của chúng ta.
Thái tổ nhân minh cao Hoàng đế Mạc Đăng Dung và Tuyết Giang phu tử – Tể tướng Mạc triều, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với nhiều nhân vật lịch sử khác là những nhân kiệt. Họ sinh ra từ mảnh đất địa linh này, sinh ra họ, nuôi dưỡng họ, bồi đắp nhân cách, trí tuệ, sức mạnh, nghị lực cho họ để họ trở thành nhân kiệt. đồng thời chính họ lại góp phần vào truyền thống của mảnh đất này thêm rạng rỡ, hào hùng.
- Mạc Đăng Dung và Nguyễn Bỉnh Khiêm – Nhân kiệt ở cùng một thời đại, sự nghiệp và địa vị khác nhau, song cùng có chung một chí hướng muốn đem lại hoà bình cho đất nước, cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho người dân.
– Mạc Đăng Dung từ thuở thơ ấu đã giúp thân phụ, thân mẫu chèo đò, thả lưới bắt tôm cá kiếm kế sinh nhai. Lớn lên bằng tài trí của mình đỗ đô lực sĩ, trạng nguyên võ, được tuyển vào triều đình phục vụ, thăng tiến trong bộ máy cai trị của nhà Lê. Ông đã chứng kiến sự trì trệ, rối ren, mục nát của triều đại phong kiến nhà Lê sơ lúc cuối thời, bấy giờ với những “Vua lợn”, “Vua quỷ” bỏ bễ triều chính, loạn lạc khắp nơi, sản xuất đình trệ, nội chiến liên miên, người dân rơi vào cảnh lầm than, cùng cực. Với khí tiết của bậc trượng phu, trung thần Mạc Đăng Dung đã hết lòng phụ tá các đời vua Lê, nhưng không sao cứu vãn được nhà Lê suy thoái. Ông đã nhận chiếu nhường ngôi của vua Lê Cung Hoàng, đảm nhận sứ mạng của lịch sử và người dân giao phó, lên ngôi Hoàng đế, khai sáng vương triều Mạc vào giờ Ngọ, ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi 1527.
Từ khi ông lên ngôi vua, Mạc Đăng Dung đã cùng triều đình nhà Mạc thực thi nhiều chính sách cởi mở, đổi mới, cách tân, đã mang lại nhiều thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực của quốc gia Đại Việt: Đất nước thanh bình, thịnh trị; sản suất nông nghiệp được đẩy mạnh đem lại đời sống ấm no cho người dân; thủ công nghiệp phát triển, nhất là nghề dệt vải và gốm sứ. Hàng hoá dư thừa, giao thương được mở rộng; chợ quán, cảng thị được xây dựng ở nhiều nơi; trật tự, kỷ cương được thiết lập, không còn người cầm giáo mác và binh khí đi ra ngoài đường; không còn trộm cắp, kể cả ban đêm người đi lại, buôn bán đều được an toàn; trâu bò thả rông ngoài đồng tối không phải lùa vào chuồng. Khoa cử được quan tâm, hiền tài được trọng dụng “Trong khoảng vài năm người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài đêm không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”.
Mạc Đăng Dung còn cho xây dựng Dương Kinh – Kinh đô thứ hai tại chính quê hương mình ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương. Đây không chỉ là tấm lòng của ông luôn nghĩ về quê hương, mà đây chính là tầm nhìn xa trông rộng của ông. Ông xây dựng đô thị ven biển đầu tiên của Đại Việt tại quê hương mình, với tâm ý xây dựng tại đây một hải cảng, mở ra một con đường biển giao lưu với thế giới bên ngoài. Qua đó tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thương quốc tế.
Tư tưởng xuyên suốt của Vương triều Mạc, của các vị vua nhà Mạc vì một đất nước hoà bình, quốc gia thịnh vượng, người dân thoát khỏi cảnh cơ cực, lầm than không chỉ ở việc thực thi các chính sách tiến bộ, cởi mở, cách tân mang đến những thành tựu trong phát triển kinh tế – xã hội, mà còn ở cả những chính sách cởi mở đối với tôn giáo, nho giáo không còn chiếm thế độc tôn với tư tưởng và các quy định hà khắc như: “Vua bảo bề tôi chết mà bề tôi không chết là bất trung; Cha bảo con chết mà con không chết là bất hiếu”. Thời Mạc nho giáo, phật giáo, lão giáo chung sống hoà hợp; Phật giáo có phần được chấn hưng. Thông qua lễ hội Minh Thề (Minh Thệ) do bà Thái hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, chính cung Hoàng hậu của Thái tổ Nhân minh Cao Hoàng đế Mạc Đăng Dung khởi xướng để răn dạy quan, quân và người dân đã manh nha xuất hiện tư tưởng và nhận thức tiến bộ trong xã hội về phấn đấu xây dựng một xã hội bao dung, bình đẳng, bác ái, không có người nghèo, không có kẻ ác, làm nhiều việc thiện, không lấy của công làm của tư. Một xã hội như vậy rõ ràng và chắc chắn sẽ mang lại nhiều quyền lợi cho người dân.
Nhà Mạc còn thực thi chính sách rất nhân văn và tiến bộ trong sử dụng, trọng dụng và bổ nhiệm quan lại trong bộ máy cai trị đất nước. Khác với các triều đại trước đó, ngay từ ngày đầu lên ngôi, Hoàng đế Mạc Đăng Dung đã tuyên ngôn trước triều thần: “Ai muốn phụng sự đất nước thì tiếp tục được triều đình trọng dụng, bổ nhiệm chức tước. Còn ai mà vẫn nặng tình, nặng nghĩa với vua cũ thì được cấp quần áo, ruộng vườn về quê sinh sống, làm ăn”. Chính sách này của Nhà Mạc rất được lòng quan lại và người dân. Quan điểm và những chính sách đó không chỉ giải toả được các mâu thuẫn, tư tưởng chống đối, hận thù ngay trong bộ máy cai trị đất nước mà còn khích lệ sự đoàn kết, đồng tâm hiệp lực của các lực lượng xã hội ủng hộ cùng với triều đình giữ vững ổn định xã hội, xây dựng đất nước thịnh trị, hoà bình, người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Quan điểm, tư tưởng đó còn được vương triều Mạc và các vị vua nhà Mạc thể hiện trong thực thi chính sách ngoại giao mềm dẻo, khéo léo với các nước lớn (ngoại giao cây tre) nhằm tránh được các cuộc chinh phạt, xâm chiếm, giầy xéo nước ta. Theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng thì trong suốt thời gian trị vì của nhà Mạc định đô tại kinh thành Thăng Long, không có bóng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, ngay kể cả quan bảo hộ, dù hình thức như “Đạt Lỗ Hoa Xích” ở Thăng Long triều Trần cũng không có. Để đổi lấy hoà bình, tránh được các cuộc xâm lược nước ta, Hoàng Đế Mạc Đăng Dung đã phải gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả đất nước để tránh một cuộc xâm lược nước ta của nhà Minh (1541), nhưng vẫn bị mang tiếng là tự trói mình để đầu hàng tại ải Nam Quan (trên thực tế là quàng một dây lụa vào cổ, không phải là tự trói). Hay việc dâng đất của Đại Việt cho nhà Minh cũng chỉ là “dâng” những tên đất khống, chứ có đâu là đất thực hoặc là đất từ trước vốn là của Trung Quốc, chứ đâu có phải là đất của Đại Việt cắt sang (chính sử của nhà Minh ghi chép lại). Và rồi chỉ bằng một bài biểu của nhà Mạc cũng đã chôn chân và lui binh hàng vạn tướng sĩ nhà Minh.
Cũng theo cố giáo sư Trần Quốc Vương thì tất cả những ứng xử trên của nhà Mạc với nhà Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao xuyên suốt của “Việt nhỏ với Hoa lớn”, “Thần phục giả vờ, độc lập thật sự” cực kỳ trí tuệ, khôn khéo và hiệu quả của triều đình và các vị vua nhà Mạc”.
Thái độ kiên quyết ngăn chặn hoạ xâm lăng của các vua nhà Mạc thời thịnh trị cũng như ở giai đoạn suy vong đã được thể hiện rõ nét ở lời căn dặn các vị vua kế tiếp vương triều trước lúc lâm chung của một đại thần: “Nay khí vận nhà Mạc đã cạn, họ Lê hưng phục, đó là bởi số trời đã định. Dân chúng vô tội mà mắc phải nạn binh đao, thật không nỡ … Cuối cùng, chớ nên mời người Minh vào trong nước ta, khiến cho dân phải lầm than, đau khổ. Đó là tội lớn, không gì so được” – Di chúc của Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn trước lúc lâm chung để lại khuyên vua Mạc Kính Cung. Qua đó mới thấy được tư tưởng vì nước, vì dân của vương triều Mạc và các vua nhà Mạc.
– Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) cùng thời, nhưng ít hơn Mạc Đăng Dung 8 tuổi. Ông xuất thân trong một gia đình nho sĩ bình dân ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương, nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Cha là Nguyễn Văn Định đỗ Hương cống triều Lê nhưng ở nhà dạy học. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con gái Tiến sĩ Thượng thư triều Lê, Nhữ Văn Lan, người làng Yên Tử Hạ, tổng Tiên Minh nay là xã Kiến Thiết, Tiên Lãng, Hải Phòng. Bà là người có tư chất thông minh, giỏi văn thơ, thông kinh dịch, người có công lớn trong việc dạy dỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm thời thiếu thời.
Lớn lên, ông được gia đình cho theo học ngài bảng nhãn Lương Đắc Bằng – một nhà nho nổi tiếng, một vị quan thanh liêm, một người thầy xuất sắc, nên ông đã sớm hấp thụ được những kiến thức uyên thâm của người thầy xuất chúng. Tài năng, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm không ngừng phát triển và hoàn thiện như hiền tài, đất nước rất cần những người như Ông tận tâm xây đắp.
Chúng ta đều biết Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra và lớn lên ở giai đoạn nhà Lê sơ đang suy tàn, triều đình rối ren, quan lại nhũng nhiễu, tranh giành quyền lực, vơ vét của dân, người dân bị đẩy vào cảnh lầm than, khổ cực, rất cần có những nhân tài như Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng ra gánh vác việc nước, việc dân.
Tuy nhiên trong một thời gian dài, ông không dự các kỳ thi để đỗ đạt làm quan lo việc nước, việc dân; đến mãi cuối thời khi nhà Lê sơ phải nhường ngôi cho nhà Mạc, thậm chí mãi sau 8 năm Mạc Đăng Dung lên ngôi, nhà Mạc trị vì điều hành đất nước, ông “nghe ngóng” kỹ lưỡng rồi mới ra ứng thi ở khoa thi năm Ất Mùi 1535, khi đã ở tuổi 44, thời vua Thái tông Mạc Đăng Doanh. Thi đỗ đầu khoa, được Vua sắc phong Trạng nguyên năm đó, rồi mới nhận tước trong bộ máy cai trị đất nước của nhà Mạc.
Lý giải cho điều này, đã có rất nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. Người thì cho rằng do hoàn cảnh gia đình nghèo khó, người khác thì bảo do bạn bè khuyên nhủ. Ý kiến khác thì cho rằng do nhà Mạc ép buộc v.v… Theo tôi, các lý giải trên đều có lý lẽ riêng, nhưng chưa phải hoàn toàn xác đáng. Có lẽ còn có điều gì thật thầm kín, thật sâu xa, chắc chắn chỉ có cụ Trạng mới là người có câu giải đáp. Thiết nghĩ, với một người như ông, thông kinh sử sách, am hiểu thời thế, yêu nước, thương dân, bất bình với bộ máy quan lại nhũng nhiễu, đẩy người dân vào cảnh lầm than, khốn cùng. Các bậc trung quân, hiền tài đều chán ngán, bất bình với triều đình. Trong bối cảnh đó, không khó gì mà ông không nhận ra được rằng nếu ông ra ứng thi, sẽ đỗ đạt cao và sẽ được trọng dụng vào bộ máy cai trị đất nước, thì chắc chắn ông cũng chẳng thay đổi được gì, chưa kể ông cũng đã đoán định được cơ đồ nhà Lê sẽ thoái trào, sẽ được thay thế bời một triều đại khác tiến bộ hơn, có thể thay đổi được xã hội, mang lại sự bình yên, hoà bình cho đất nước, bình ổn cuộc sống của người dân. Và cũng phải mất tới 8 năm sau khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, khai sáng Vương triều Mạc, thực thi nhiều chính sách cởi mở, tiến bộ, cách tân, mang lại nhiều thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực như đã đề cập ở phần trên. Thái tổ Mạc Đăng Dung và Thái tông Mạc Đăng Doanh đều được ghi nhận là những minh quân; tài năng và đức độ, được Nguyễn Bỉnh Khiêm thực chứng, xác nhận. Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh là 2 đời vua thịnh trị nhất triều Mạc. Vua hiền – tôi trung; đất nước bình an, xã hội phát triển. Trong một xã hội như vậy, hiền tài không chỉ được trọng dụng, đãi ngộ mà còn có được môi trường, điều kiện tốt để họ mang hết tài năng, đức độ ra giúp vua, giúp nước. Theo tôi, có lẽ đây là lý do chính đáng nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm ra ứng thi và săn sàng tiếp nhận sự trọng dụng của nhà Mạc để giúp nước, giúp dân.
Đáng tiếc Vương triều Mạc cũng như các triều đại phong kiến khác không nằm ngoài quy luật tiến hoá của lịch sử. Thịnh rồi lại suy, con cháu các ngài đã không giữ được cơ nghiệp của cha ông. Chỉ 8 năm ra làm quan triều Mạc với khí phách của bậc trượng phu, ông đã dâng sớ trình vua Mạc Phúc Hải (khi đó còn quá trẻ, cả ông và cha mình là Thái tổ Mạc Đăng Dung và Thái tông Mạc Đăng Doanh đều đã chết do tuổi già và lâm bệnh) chém đầu 18 quan lộng thần, trong đó có cả con rể ông, nhưng không được nhà vua chấp thuận. Bất bình trước thực trạng trên ông đã cáo quan về trí sĩ tại quê nhà, làm nghề dạy học, sáng tác thơ ca, luận bàn thời cuộc. Có lẽ đến đây cuộc đời và sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bước sang giai đoạn mới, giai đoạn ông đóng góp cho nền khoa học và văn học nước nhà rực rỡ, chói lọi nhất.
Chính trong quãng thời gian này ông càng chứng kiến nhiều cảnh ngang trái, bất công, xấu xa của xã hội đương thời. Chiến tranh liên miên giữa các thế lực phong kiến Nam – Bắc triều; nội bộ triều đình lục đục, tranh giành quyền lực lẫn nhau, tham nhũng tràn lan trong bộ máy quan lại, đồng tiền đã lũng đoạn, tha hoá đạo đức xã hội; dân lành, người nghèo tiếp tục rơi vào cảnh cơ cực, lầm than càng trỗi dậy thôi thúc trong con người và tâm trí ông về một đất nước hoà bình, không có chiến tranh, không còn cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn.
Không làm gì được hơn trong bối cảnh đó, cũng chỉ nhằm tránh được thêm một cuộc chiến khốc liệt trong nội bộ các thế lực vua chúa tranh giành quyền lực lẫn nhau, mà Cụ Trạng đã khuyên Nguyễn Ánh vào dải đất Thuận Hoá trấn thủ. “Hoành Sơn nhất đới, khả dĩ dung thân”. Rồi khuyên Trịnh Kiểm không nên phế truất chiếm ngôi vua Lê để “Ở chùa thờ Bụt thì ăn oản”, hay mách nước cho vua Mạc (Mạc Mậu Hợp) lên đất Cao Bằng cát cứ “Cao Bằng tuy sổ, khả duyên sổ thể”. Cuộc chiến tranh nào cũng sẽ làm cho đất nước hoang tàn, nghèo đói, người dân đói khổ, lầm than.
- Cả cuộc đời, cho đến lúc lâm chung, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn một lòng, một dạ với nhà Mạc, với các vua nhà Mạc.
Sinh ra và lớn lên ở thời Lê sơ, ông học và thành tài cũng dưới triều nhà Lê. Song chỉ dưới triều Mạc, thời kỳ thịnh trị mới quyết định ra ứng thi, cũng chỉ trong thời gian ngắn vua Mạc trọng dụng, nhưng khi ông dâng sớ chỉ vì nước, vì dân thì lại không được vua Mạc chấp nhận. Bất bình, chán chường ông từ quan, trí sĩ về quê ẩn dật, dạy học.
Vậy khi Nhà Mạc đã thất thủ, dần suy yếu, Nhà Lê – Trịnh bước vào giai đoạn phục hưng, mạnh lên, ông được mời ra làm quan trong bộ máy nhà Lê Trịnh, ông đã từ chối. Trong khi đó ông vẫn thường xuyên dõi theo triều Mạc, đôi khi còn lên kinh thành thăm vua Mạc. Thậm chí ở tuổi 70 Nguyễn Bỉnh Khiêm còn lên xa giá ra mặt trận cùng với vua Mạc đi dẹp loạn. Trong suốt thời gian trí sĩ ở quê nhà, ông không chỉ tích cực ủng hộ nhà Mạc, mà vẫn tận tuỵ với công việc những khi triều đình phái người đến thỉnh sự, bái kiến ông. Ông còn động viên, khích lệ bạn bè hăng hái dâng kế sách lên vua Mạc, kể cả can gián triều đình. Ngược lại, mỗi khi triều đình có việc hệ trọng đều sai sứ đến yết kiến Cụ Trạng mách nước, thậm chí triệu ông về kinh đề bàn việc quân cơ, xong việc ông lại từ kinh thành trở về quê. Điều đó càng có cơ sở để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ chọn Vương triều Mạc để phụng sự. Chọn Mạc Thái Tổ làm minh chủ của mình bởi Mạc Thái Tổ và các vị Vua đầu triều nhà Mạc đều có chung một ý chí, làm gì để mang lại hoà bình, ổn định xã hội, đất nước thanh bình, phát triển; đời sống người dân thoát khỏi đói khổ, lầm than. Cả cuộc đời của mình cho đến lúc lâm chung, ông vẫn một lòng một dạ với Nhà Mạc, với các vua nhà Mạc. Để tri ân một bậc đại trung thần, khi ông qua đời, triều đình đã cấp 3000 lượng bạc và 100 mẫu ruộng để xây Đền thờ ông tại Trung Am, Lý Học và đích thân vua Mạc Mậu Hợp đã phong tước Cực phẩm và tự tay viết biển ngang treo trước cửa Đền thờ ông: “Mạc triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ”.
Một điều hoàn toàn logic là cách đây hơn 6 năm, vào giờ Bính Thìn, ngày Mậu Tuất, tháng Bính Thìn, năm Mậu Tuất, tức 8 giờ sáng ngày 6/5/2018 (21/3 năm Mậu Tuất) một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu độc lập, sau nhiều năm nghiên cứu rất nghiêm túc, bằng nhiều phương pháp tổng hợp đã tìm được 2 bia đá cổ tại khu bãi triều khu Cống Cá, thuộc thôn Thanh Trì, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng. Hiện 2 bia cổ này đã được chuyển về Bảo tàng Hải Phòng để bảo quản và tiếp tục nghiên cứu.
Nghiên cứu bước đầu cho thấy nội dung cả 2 bia đá này là do chính Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn vào tháng 6 năm 1585, trước ngày cụ mất 6 tháng, giao cho học trò tin cẩn khắc lên bia đá, rồi mang cất giấu ở nơi cụ dặn. Ngay cả ngày giờ phát lộ, người tìm được cũng được Cụ Trạng dự liệu.
Tập trung nghiên cứu Bia có bài thơ DI NGÔN CHÍ cho thấy một thời gian dài cho tới tận lúc lâm chung, Cụ Trạng luôn dành nhiều tâm trí, thời gian cho việc bảo vệ nhà Mạc, các vị vua nhà Mạc trước các thế lực chống đối, thù địch, cố tình xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Nhà Mạc, phủ nhận mọi công lao, đóng góp, thành quả của Vương triều Mạc, của Thái tổ Mạc Đăng Dung và Cụ Trạng. Cụ tự cho mình có trách nhiệm, đạo lý bảo vệ lẽ phải, bảo vệ minh quân. Cụ để lại nhiều vần thơ với nhiều ẩn ý mách bảo cho hậu thế, cho con cháu họ Mạc những điều quân cơ cụ đã giấu kín trong lòng, âm thầm chuẩn bị và thực hiện trong rất nhiều năm cuối đời.
Đáng chú ý trong bài thơ này, có 2 câu thơ chữ Hán:
“Tản thần tuyển đế vi tâm phạn
Đà linh nam thế bá thánh minh”
Các chuyên gia luận giải 2 câu này toát nên tình cảm vô bờ bến, cả sự trân trọng, kính trọng nghiêm túc của Cụ Trạng dành cho Triều Mạc và vị vua đầu triều khai sáng Vương triều Mạc. Đây còn là lời tuyên ngôn lịch sử đanh thép gửi lại cho hậu thế của Cụ Trạng về Nhà Mạc và Thái Tổ Mạc Đăng Dung.
Với một kho tàng kiến thức ở nhiều lĩnh vực, Cụ Trạng để lại cho hậu thế. Mặc dù đã được các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu dày công “đào bới” trong suốt nhiều thập kỷ qua, song chắc chắn một điều rằng còn rất nhiều, rất nhiều điều bí ẩn, huyền bí trong số các di sản mà Cụ để lại cho đời, đến nay vẫn không và mãi mãi sẽ không giải mã, làm rõ được. Phần vì một số trong đó bị thất lạc mãi mãi không còn có thể tìm thấy được, phần vì Cụ quá tài, quá uyên thâm và thâm thuý được Cụ gửi gắm trong các tác phẩm cả bằng Hán ngữ cổ và bằng chữ Nôm, khó có ai có thể giải nghĩa được. Trong đó chắc chắn có cả các tác phẩm mà Cụ trải lòng mình với Vương triều Mạc, với các vua nhà Mạc ở mức sâu thẳm hơn. Đây cũng là điều mà tôi chưa làm được trong bài viết này. Mong rằng sẽ có những nghiên cứu sâu hơn, toàn diện, đầy đủ hơn để giải mã sát thực hơn những điều Cụ Trạng còn ấp ủ, giấu kín trong lòng về triều đại nhà Mạc, về Thái tổ Hoàng Đế Mạc Đăng Dung và các vị vua nhà Mạc.
Hải Phòng, ngày 22 tháng 11 năm 2024
Quang cảnh tại Hội thảo:
Tin: Hoàng Sơn Hiền – CVP HĐMT Hải Phòng
Viết bình luận
Tin liên quan
- ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC MẠC TỘC VIỆT NAM DIỄN RA THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP
- ĐẠI HỘI MẠC TỘC VIỆT NAM KHOÁ IV ĐANG ĐƯỢC HĐMT VIỆT NAM, HĐMT TỈNH HẢI DƯƠNG TÍCH CỰC CHUẨN BỊ ĐỂ ĐÓN TIẾP CÁC ĐẠI BIỂU, CON CHÁU VỀ DỰ ĐẠI HỘI
- DANH SÁCH ỦNG HỘ ĐẠI HỘI MẠC TỘC VIỆT NAM LẦN THỨ IV NHIỆM KỲ 2024- 2029
- HỘI ĐỒNG MẠC TỘC TỈNH HẢI DƯƠNG TRIỂN KHAI, PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ CHO CÁC THÀNH VIÊN PHỤC VỤ ĐẠI HỘI MẠC TỘC VIỆT NAM KHOÁ IV NHIỆM KỲ 2024- 2029 TẠI ĐIỆN SÙNG ĐỨC ( TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM)
- HĐMT HẢI DƯƠNG DỰ LỄ KHÁNH THÀNH HỌ PHẠM GỐC MẠC KIM BẢNG, HÀ NAM
- THÔNG BÁO HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH MẠC TỘC VIỆT NAM KHÓA III – Nhiệm kỳ 2019-2024.
- HỘI TUỔI TRẺ MẠC TỘC TỈNH HẢI DƯƠNG TỔ CHỨC LỄ KẾT NẠP HỘI VIÊN MỚI
- HỘI TUỔI TRẺ MẠC TỘC TỈNH HẢI DƯƠNG TỔ CHỨC TRAO THƯỞNG QUỸ KHUYẾN HỌC KHUYẾN TÀI MẠC ĐĨNH CHI CHO CÁC CHÁU CÓ THÀNH TÍCH TRONG HỌC TẬP NĂM HỌC 2023-2024
- THƯ CẢM ƠN NHÂN DỊP TỔ CHỨC ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TUỔI TRẺ MẠC TỘC TỈNH HẢI DƯƠNG LẦN THỨ NHẤT NHIỆM KỲ 2024- 2029
- HỘI TUỔI TRẺ MẠC TỘC TỈNH HẢI DƯƠNG TỔ CHỨC THÀNH CÔNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TUỔI TRẺ MẠC TỘC TỈNH HẢI DƯƠNG LẦN THỨ NHẤT NHIỆM KỲ 2024- 2029
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.