- Đang online: 2
- Hôm qua: 1086
- Tuần nay: 32475
- Tổng truy cập: 3,482,587
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm 629
- 1760 lượt xem
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm
By Tin Nhanh • On 16/11/2015 • In Kiến thức, Xã Hội Kiến thức, Xã Hội Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm, cúng lạy ở chùa đúng cách, cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm, vái cúng lạy ở chùa, văn khấn Đức Ông, văn khấn Đức Thánh Hiền, văn khấn Quan Thế âm Bồ tát, văn khấn Tam Bảo 0
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm là điều mà tất cả mọi người từ nam, nữ, già, trẻ đều cần phải nắm được. Có tâm là tốt nhưng phải biết cách để điều chỉnh sao cho phù hợp hoàn cảnh.
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm
Thắp hương, khấn, vái, lạy là một chuỗi các hành động liên tục trong quá trình thực hiện một nghi lễ thờ cúng, có thể là ở nhà (cúng gia tiên), ở đền, chùa. Trong phạm vi bài viết này, Mangtinmoi.com xin đưa ra một số cách thực hiện việc vái, lạy ở chùa dành cho những người quan tâm.
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: cách vái lạy cơ bản
Vái: Vái thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Ở Chùa nhiều nơi cấm khách thập phương châm hương trong chùa, mà chỉ cho thắp ở vạc hoặc lư hương to để ở ngoài cửa.
Vái thay thế cho lạy trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Số lượng lần vái thường là lẻ, phổ biến nhất là 3 vái hay 5 vái.
Lạy: Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý nghĩa khác nhau. Việc lạy được thực hiện trước Tam bảo.
Cách lạy như sau: đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuông gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống (hoặc ngửa), đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất (tùy có thể phải hoặc trái theo thói quen của mỗi người), và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang vối đầu gốỉ chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Số lần lạy là số lẻ: 3,5,7,9. Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra. Về việc xòe bàn tay úp hay ngửa là tùy người lạy, cũng chưa có một tiền lệ nào “bắt buộc” phải úp hay ngửa lòng bàn tay.
Cách lạy nêu trên hiện nay chỉ có các bậc cao niên áp dụng thường trong dịp lễ, vì khá cầu kỳ.
Cách lạy khác (thế phủ phục) thường được các nhà sư thực hiện: đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thòi quì hai đầu gối xuống luôn; khi đứng dậy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối.
Với phụ nữ hoặc với người bị đau đầu gối thì có cách phổ biến như sau: ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trưóc và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trưốc ngực rồi đưa cao lên ngang vói tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết. Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Phật giáo Việt Nam thường lạy theo phương cách ngũ thể đầu địa (hai tay, hai chân và cái đầu đụng mặt đất). Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong tất cả các cung cách lễ lạy, thể hiện lòng biết ơn và niềm tôn kính với Tam Bảo
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: vái lạy bao nhiêu lần là đủ
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy.
Theo giáo lý của đạo Phật thì ba cái lạy chính là lễ lạy ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi phiền não và ra khỏi sinh tử luân hồi.
Đức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy đầu tiên là để tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ và nhớ ơn Phật đồng thời là thề nguyện sẽ theo gương Ngài mà tu hành để về bến giác.
Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy thứ hai là lạy Pháp Bảo nhằm bày tỏ lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến những lời dạy của Phật. Nếu những người con Phật thực hành theo lời dạy của Phật thì sẽ có công năng qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát.
Tăng là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Vì thế cái lạy thứ ba là lạy Tăng Bảo, từ các vị Thánh Tăng xuất thế đến các vị Tỳ Kheo trụ thế tu hành chân chính, đạo đức trong sạch và giới luật trang nghiêm.
Ngoài ý nghĩa lễ lạy Phật, Pháp và Tăng nêu trên, ba lạy cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi báu bên trong chúng ta và trong mỗi chúng sinh.
Vì chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tính sáng suốt (Phật tính), đồng một pháp tính từ bi và bình đẳng (Pháp tính) và đồng một đức tính thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tính).
Khi lạy phải tuân theo lời Phật dạy không được suy nghĩ gì cả. Chỉ theo dõi hành động và hơi thở của mình. Tâm phải ở trạng thái thanh tịnh, không tạp nhiễm.
Đồng thời phải quán chiếu được việc mình đang làm, lễ xuống thì chỉ biết là lễ xuống, đứng lên thì chỉ biết là đứng lên, chắp tay thì chỉ biết là chắp tay. Tuyệt đối không nghĩ đến bất cứ ai hay tưởng nhớ đến bất cứ cái gì. Như thế mới thể hiện lòng tôn kính với ba ngôi báu Tam Bảo.
Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bơn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc âu phục, nêu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: đến chùa cúng gì khấn gì
Đi lễ chùa là một nét đẹp tâm linh trong phong tục của người Việt Nam trong những ngày giằm, mùng một, ngày lễ Tết hay những lúc gia đình có việc quan trọng hoặc tâm trạng bế tắc người ta cũng cầu khấn đến chùa, nhằm tìm sự bình an và sức khỏe, không cầu lợi lộc hay tiền tài địa vị.
Chùa là nơi thanh tịnh nên khi sắm sửa lễ vật bạn phải chọn những lễ chay như hương, hoa quả tươi (hoa tươi lễ Phật là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu… không dùng các loại hoa tạp, hoa dại), oản, xôi chè, trầu cau, đèn, nến và cấm kị lễ vật mặn. Hiện nay rất nhiều người đang bị nhầm lẫn việc mang lễ mặn lên cúng chùa.
Dâng lễ mặn chỉ được áp dụng trong trường hợp đền chùa đó có các vị Thánh , Mẫu, Thành Hoàng,…Các vị này thường an tọa ở các khu ngoài chính điện. Lễ mặn có thể dâng gồm gà , giò , chả, rượu, vàng mã,…
Đến Chùa phải khấn ban Tam Bảo, ban Đức Ông, ban Đức Thánh Hiền, Quan Thế âm Bồ tát. Có những bài khấn theo truyền thống hoặc có thể diễn nôm theo ý hiểu của mỗi người miễn là thành tâm, không cần sự cầu kỳ.
Ban thờ Đức Ông chùa Quán Sứ
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: Văn khấn Đức Ông – Đức Chúa Ông (Tôn giả Tu-đạt)
Ban Đức Ông là nơi khấn đầu tiên không phải là ban Tam bảo vì Đức Ông là người trông chùa:
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là
…………………………………………………………………………………….
Ngụ tại
……………………………………………………………………………………………..
Cùng cả gia đình thân tới cửa chùa …………………………….. trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, (nếu có đang lễ vật thì khấn thêm “hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài”), chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.
Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh chùa đây.
Thiết nghĩ chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, ba tháng hè chín tháng đông, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: cách khấn ở ban Tam Bảo
Nam mô a di đà phật (3 lần 3 lạy)
Đệ tử con nay thành tâm kính lạy mười phương chư Phật
Hôm nay là ngày, tháng , năm. Tín chủ con là… ngụ tại… Con thành
tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng lên mười phương thường trụ Tam Bảo.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi , phù hộ độ trì cho con được …. (công
danh, tài lộc, nhân duyên, sức khỏe)….
Chúng con người trần phàm tục còn nhiều lỗi lầm, cúi mong Phật Thánh từ bi đại xá để cho con và gia đình được tai qua nạn khỏi, mọi sự bình an, sở cầu như ý.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin phù hộ độ trì.
Nam mô a di đà Phật (3 lần 3 lạy)
Hoặc đầy đủ như sau:
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là …………………………………………………………………………………….
Ngụ tại ………………………………………………………………………………………………
Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng (nếu viết sớ đặt trên mâm lễ vật) lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.
Chúng con xin dốc lòng kính lễ:
– Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc Tây phương.
– Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.
– Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ cõi Đông phương.
– Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
– Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần Chư Thiên Bồ Tát.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được ……………………………… (công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).
Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc, tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai quan nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khoẻ, trên dưới thuận hoà an khang thịnh vượng.
Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Ngoài ra có thể khấn Nôm theo ý tự hiểu miễn là thành tâm.
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: Văn khấn Đức Thánh Hiền
Văn khấn Đức Thánh Hiền (Đức A-nan-đà Tôn Giả)
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là …………………………………………………………………………………….
Ngụ tại ………………………………………………………………………………………………
Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa.
Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, sức khỏe dồi dào, an ninh khang thái, gia đạo hưng long, thịnh vượng.
Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)
Cách vái cúng lạy ở chùa đúng cách tránh phạm: Văn khấn Bồ-tát Quán Thế Âm
Văn khấn Bồ-tát Quán Thế Âm
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Nam mô Đại từ Đại bi Linh cảm Quán Thế Bồ Tát.
Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thuỳ từ chứng giám.
Chúng con có nghe Đức Phật dạy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn rằng
“Dù chỉ nghe tên Quán Thế Âm
Hay dù chỉ thấy bức chân dung,
Nhất tâm trì niệm hồng danh ấy,
Thoát mọi hung tai, được cát tường”.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là …………………………………………………………………………………….
Ngụ tại ………………………………………………………………………………………………
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới toà sen hồng.
Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát! (3 lần, 3 lạy)
NGHI THỨC CÚNG TẾ
SƠ LƯỢC NGHI THỨC, CÚNG BÁI VÀ TẾ LỄ – Bài viết của : TRẦN VĂN GIANG
Phong tục là thói quen đã được nhiều người nhận qua một thời gian dài. Phong tục nhiều khi có những nghi thức phức tạp, cầu kỳ,.. rườm rà, tỉ mỉ không giải thích được lý do tại sao lại “phải” như thế (?) mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi (có lẽ lời giải thích đã không còn thích hợp; hoặc thất truyền, mất đi theo thời gian).
Trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta, dù theo đạo nào cũng vậy, phong tục thờ cúng tổ tiên là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương kính và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy tŕ; để con cháu ta mới có cơ hội học hỏi và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
Thờ cúng là nghi lễ của tôn giáo; cũng là phương thức cúng tế vị “Thần” vô hình tối cao theo quan điểm tôn giáo đó.
Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến nghi thức “Cúng và Tế lễ” tức là thể thức dâng đồ lễ lên Tổ tiên ông bà, thần linh của đạo thờ Ông bà và thờ Thần.
NGHI THỨC CÚNG BÁI
Nói chung, những giới luật cúng bái có chỗ “đại đồng tiểu dị,” qua nhiều thời đại và địa phương, nghi thức cúng bái thay đổi, hoặc đề ra giới luật không giống nhau, có quan điểm khác nhau ít hay nhiều, nhưng tựu trung thì mục đích vẫn thống nhất với nhau.
Có rất nhiều tài liệu khác nhau về cúng kiến, người viết xin ghi chép lại các nghi lễ thường được dùng; đồng thời thỉnh thoảng xin mạo muội góp vài ý kiến, tạm gọi là để “hướng dẫn.” Đọc giả có thể tùy nghi dựa theo đây mà thêm hoặc bớt để hợp với hoàn cảnh của cá nhân mình.
Cúng : Việc cúng thường được tổ chức trong khuôn khổ gia đình hay họ (tộc) và do gia trưởng hay trưởng tộc làm chủ, lo lấy việc hành lễ. Mỗi lần cúng đều có đồ tế lễ.
Cúng khi có giỗ Tết, kỵ nhật, có chuyện thay đổi lớn lao trong gia đình (đi xa, dựng vợ gả chồng, xây dựng nhà cửa, khai trương hàng quán thương mại…). Tùy theo hoàn cảnh giàu nghèo, cúng có đồ lễ gồm trầu, rượu, hoa quả, vàng mã, hương (nhang), cỗ chay, cỗ mặn… hoặc đôi khi chỉ có hương và nước lạnh…
Sau khi thắp đèn (hoặc nến), đặt đồ lễ lên bàn thờ, gia trưởng (hoặc trưởng tộc) khăn áo chỉnh tề, thắp hương cắm lên bình hương và đứng nghiêm trang khấn vái. trước hết để trình bày lý do việc cúng lễ, và kế đó là mời gia tiên hưởng lễ.
Trong nghĩa bình thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy, và vái.
Khấn : Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy. Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải khấn. Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng.
Khấn là lời cầu khẩn lâm râm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Trước khi khấn, gia trưởng vái ba vái ; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ (lạy) 4 lễ và vái thêm 3 vái – ta gọi là 4 lễ rưỡi (xem thêm chi tiết về “vái và Lạy” phần sau).
Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ (và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.
Trước đây lời khấn thường do “thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…
Ngoài ra, theo nghi lễ cúng cổ truyền, thường không để cho phụ nữ đàn bà phụ trách việc khấn vái (?!) (ngọai trừ gia đình có chồng chết sớm, và các con còn nhỏ).
Lời khấn cần có những chi tiết sau :
1. Báo trình địa điểm hành lễ, từ nước trở xuống Tỉnh thành, Quận huyện, Phường xã, Thôn ấp.
2. Nói rõ con cháu, liên hệ gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn, dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ trần ngày tháng năm, chôn ở đâu.
3. Mời người có tên giỗ về hưởng, chứng giám lòng thành và phù hộ cho con cháu được mọi sự tốt lành.
4. Cũng mời tất cả các vị tổ, đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã quá vãng cùng về hưởng lễ cúng.
Sau đây là một số bài văn khấn mẫu, đọc giả có thể tùy ý sửa chữa để hợp với hoàn cảnh riêng của mình :
Văn khấn gia tiên
Một bài văn khấn tượng trưng bằng chữ Hán (bài này trình bày ở đây chỉ để đọc giả tham khảo thêm; hoặc đọc cho biết. Nếu thấy không cần thiết thì quý vị cứ bỏ qua phần văn khấn chữ Hán này).
“Duy Việt Nam, “Canh Dần” niên, “”thất” nguyệt,” sơ “thập nhị” nhật.
Kim thần “Trương Văn Tốt,” sinh quán “Đa Phúc” xã, “Kinh Dương” huyện, “Hải phòng” tỉnh cư ngụ “Tân hòa” xã, “Tân bình” quận, “Gia định” tỉnh.
Cẩn dĩ :
Phù lưu thanh chước, mâm bàn cụ vật, thứ phẩm chi nghi; Cảm chiêu cáo vu.
Nhân nhật chính kỵ cung thỉnh:
Cao tằng tổ khảo “Trương Quý Công,” húy “Tiền Hải , hiệu “Tự Thái” thụy “Phong Tần” lai lam chứng giám.”
Dịch nôm và giải thích :
(Cao tằng tổ khảo : kỵ ông – đối với người khấn là bốn đời – Cao tằng tổ tỷ : kỵ bà
Tằng tổ khảo : cụ ông – Tằng Tổ tỷ : cụ bà
Tổ khảo: ông – Tổ khảo : bà
Hiển khảo : Cha – Hiển tỷ: mẹ…
Tên tục là tên lúc sống vẫn gọi, tên hiệu là biệt hiệu, bút hiệu; tên thụy là tên khi chết được đặt cho để cúng)
“Nước Việt Nam, năm Canh Dần, tháng bẩy, ngày mười hai..
Nay tôi là “Trương Văn Tốt,” sinh quán tại xã “Đa Phúc,” huyện “Kinh Dương,” tỉnh “Hải phòng.” Hiện cư ngụ tại xã “Tân hòa,” “quận Tân bình,” tỉnh “Gia định.”
Hương hoa trầu rượu, cỗ bàn mọi vật. Dám xin kể ra. Nhân ngày giỗ chính, xin kính mời : Hương hồn kỵ là “Trương Quý Công” húy “Tiền Hải” hiệu “Tự Thái” thụy “Phong Tần” về chứng giám.”
Ngày nay dân giam gần như không dùng văn khấn chữ Hán nữa mà chỉ dùng thẳng chữ Việt vì chữ Việt rõ ràng và dễ dùng, không bị nhầm lẫn chữ nghĩa… Một bài Văn khấn tiêu biểu bằng chữ quốc ngữ :
“Kính lạy Tổ tiên Ông Bà,
Cây có cội, nước có nguồn; người phải có tổ tiên, ông bà, cha me. Hương lửa lưu truyền, có thân lớn khôn đây là nhờ ơn Cửu Huyền ban phước.
Hôm nay là ngày… tháng… năm… (Âm Lịch), con tên họ là… (xưng họ tên),… tuổi, hiện ở tại… (ấp, xã, huyện, quận, tỉnh thành phố v.v…). Được ngày lành tháng tốt, sắm bày phẩm lễ, kính trình “Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ, Chú bác Nội ngọai …” nhận lễ chứng minh, cho phép con được (đào móng, dựng nhà, lấy vợ / gả chồng cho con v.v…).
Kính xin Ông Bà Tổ Tiên… phù hộ độ trì cho công việc… (Nếu là đào móng, xây, dựng nhà, thì vái cho được tiến triển tốt đẹp, an toàn khi làm việc, chủ thợ đều bình an, nhanh chóng thuận lợi, vui vẻ mọi bề …Nếu về nhà mới thì vái cho toàn gia được bình an mạnh khỏe, đời sống được ấm no, sung túc, trên thuận dưới hòa… Nếu là khai trương thì vái được thuận lợi, mua may bán đắt, chủ khách vui vầy, tiền bạc bốn phương tụ về, xuân hạ thu đông đều phát đạt… Nếu là dựng vợ gả chồng thì xin độ rì trăm năm hạnh phúc…
Xin kính trình.”
Hoặc:
“Ngày… tháng… năm…
con là kế tự tên… có việc… xin đem lễ bạc, đãi chút lòng thành, nén hương đèn rượu, đĩa muối bát canh, trước bàn thờ khấn vái, xin thấu tâm linh, phù hộ cho con cháu, mọi sự yên lành.
Cẩn cáo. Cũng kính mời Thổ công Táo quân đồng lai cách cảm.”
Vái (“bái”) và Lạy : Vái lạy là phép xã giao có sẵn từ thời xưa, không chỉ dùng khi cúng tế mà người sống cũng lạy nhau.
Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính cẩn.Người ta thường nói chung hai việc thành một : “khấn vái” là vậy.
Vái lại thường đi đôi với lạy. Số lần lạy và vái có một ý nghĩa riêng rất đặc biệt. Số lần vái và lạy (sẽ nói thêm ở phần sau) là một đặc trưng phong tục Việt Nam bởi vì ngưới Tầu không có tục lệ vái lạy giống như người Việt – Họ chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái sau khi cúng mà thôi.
Vái : Vái được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này.
Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2, 3, 4, hay 5 vái…
Lạy : Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy : thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà.
Cách đơn giản : Ngày nay, cách lạy cũng đã được giản lược, hoặc vì không hiểu đúng phép người ta hành lễ một cách lấy có với những động tác vô nghĩa. Đã có xu hướng thay thế lạy bằng những cái “xá” (vái); nhất là những người ăn mặc Âu phục. Rồi đây, có thể tục lạy sẽ bị bỏ dần và mất hẳn trong mọi lễ nghi trong gia đình cùng ngay cả ở các đền chùa. Thiết tưởng cũng cần ghi lại một vài nét về tác động của cách lạy với hoài mong lưu lại một chút dấu tích về sau.
Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong mình xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần bàn tay đang chắp (đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời co hai tay vẫn lên chắp trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào đầu gối bên phải mà đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng lên. Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau khi khấn từ tư thế quỳ đứng lên, đã qua như lễ được một nửa lạy, cho nên người ta thường nói là lạy “bốn lạy rưỡi” là vậy.
Để trình bày cho chi tiết hơn : Có các thế lạy cho Nam giới và Nữ giới; đồng thời có bốn trường hợp lạy : 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý nghĩa khác nhau. Mời đọc.
Thế Lạy Của Đàn Ông : Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên.
Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng. Sở dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy. Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế Lạy Của Đàn Bà : Thế lạy của các bà là cách ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Nếu muốn giữ phong tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh niên phải có lòng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập dượt nhiều lần mới nhuần nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.
Ý NGHĨA CỦA LẠY VÀ VÁI
– Ý Nghĩa của 2 Lạy và 2 Vái : Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu người qua đời là vai dưới như em, con cháu, và những người vào hàng con em v..v.., ta nên lạy 2 lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn, các người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì v.. v.., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
– Ý Nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái : Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
– Ý Nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái : Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm).
Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
– Ý Nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái : Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
Trong việc cúng lễ tổ tiên ông bà, sự thành kính phải đặt hàng đầu. “Tâm động quỷ thần tri,” trong lòng nghĩ sao thì quỷ thần đều thấy rõ. Việc cúng bái mà thiếu thành kính tức là thiếu sự hiếu thảo. Tổ tiên nào chứng giám cho những con cháu có cúng mà không có kính.
(Còn tiếp)
Trần Văn Giang
NGHI THỨC TẾ LỄ (2)
Nguồn Thế giới tâm Linh. Bài viết của Trần văn Giang
Tế lễ có tính cách tập thể. Tập thể ở đây có thể là quốc gia, làng xã; có thể là một cộng đồng hay một hội đoàn. Như vậy, Tế cũng là cúng nhưng hình thức và nghi thức to lớn hơn cúng (cho gia đình, họ tộc). Tế thường có âm nhạc và có một ban Tế gồm nhiều người, nhiều chức sắc…
Tế lễ có 2 điểm khác với khấn và cúng :
– Tế lễ là cuộc dâng lễ vật một cách long trọng lên những vị Thần lớn như : Trời, Đất, Mùa Màng, Đức Khổng Phu Tử, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, các vị Thần Thành Hoàng của làng xã…
– Tế lễ còn được tổ chức một cách trọng thể với cờ xí, nhạc lễ và phẩm phục. Phẩm vật tế lễ là vật tam sinh: bò, dê, heo.
Mỗi buổi tế gọi là một diên tế. Thông thường có 2 diên tế : Túc Yết và Đoàn Cả (có khi đọc trại đi là Đàn Cả) :
– Túc : Đêm (trực túc : gác đêm); yết : ra mắt. Túc Yết là ‘Lễ hương chức làng dâng lễ ra mắt các vị Thần trong lúc “Kỳ Yên” (1). Như thế, chính ra diên tế Túc Yết phải cử hành về đêm hay ít ra là vào buổi chiều. Hiện nay, tại Lăng Ông Bà Chiểu, diên tế Túc Yết được cử hành vào buổi sáng, có lẽ là vì lý do an ninh cũng như để quan khách từ xa có thể tới tham dự được.
– Đoàn : một đám người đông đảo. Cả : lớn, đông. Đoàn Cả là sự tề tựu đông đủ dân làng và khách thiện tín để tế lễ Thần. Đoàn Cả là diên tế chính trong dịp lễ Kỳ Yên tại các đình làng cũng như trong lễ giỗ của các miếu thờ Thần. Học giả Huỳnh Tịnh Của viết : “Chính lễ tế thần, nhằm ngày thứ hai. Phép Kỳ Yên rồi qua ngày sau thì Đoàn Cả.”
Mỗi diên tế Túc Yết hay Đoàn Cả gồm có các nghi thức tuần tự như sau :
Thành phần ban Tế :
– Chủ tế (còn gọi là Tế chủ, hay Chánh tế): Chủ tế chủ trì nghi lễ là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt cao nhất làng hoặc là ông tiên chỉ, ông nhất đám của làng… hay một nhân sĩ có uy tín của hội đoàn.
– Bồi tế: Hai (hoặc bốn) người bồi tế giúp chủ tế và cứ trông chủ tế mà lễ sao làm vậy
– Đông xướng, Tây xướng: Hai người Đông xướng và Tây xướng đứng đối diện hai bên hương án xướng (đọc) nghi thức hành lễ. Vai trò này có thể được xem như là một hình thức “em xi (MC)” – người điều khiển chương trình – của buổi lễ.
– Nội tán: Hai Nội tán đứng hai bên chủ tế hướng dẫn ra vào và trợ xướng. Nhiều trường hợp, để cho đơn giản tiện sổ sách, vai trò hai Đông Xướng và Tây xướng được hai Nội tán kiêm nhiệm luôn thể…
– Chấp sự: Những người chấp sự (vai trò “tà loọc”) đứng hai bên lo việc điếu đóm (dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc, đọc chúc …)
– Đồng văn: Người lo việc đánh chiêng trống.
Nghi thức tế trải qua bốn giai đoạn :
1- Nghênh thần: chủ tế lễ 4 lễ – 2- Hiến lễ: dâng lễ 3 lần, mỗi lần chủ tế và bồi tế đều quỳ để hiến lễ, đọc văn tế (đọc chúc) – 3- Ẩm phúc và thu tộ: Chủ tế nhận lộc thần linh ban – 4- Lễ tạ: Chủ tế lễ 4 lễ.
Cách thức ăn mặc và động tác trong tế từ lâu đã được cung đình hoá.
Vái lạy trong các nghi thức Tế lễ
“… Từ đời xưa, vua đối với bày tôi, bố vợ đối với chàng rể, người tôn trưởng với kẻ ti ấu đều phải lạy đáp lễ… Đến đời nhà Tần mới đặt ra lễ “tôn quân ti thần,” nên thiên tử không đáp lạy bày tôi nữa… Từ quan khanh sĩ trở xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu (bề dưới), nếu kẻ ti ấu chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ xong…. Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan, cũng vái bậc trưởng quan. Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điên lại cho là lễ của tôn trưởng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưởng không được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra…” (Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ trang 174).
Xem đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã giao, không chỉ vái lạy người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hoá Âu Tây vẫn giữ được phép tôn ti (tôn trưởng ti ấu).
Theo phong tục lễ giáo của ta, bề dưới phải chủ động chào bề trên trước, trẻ chào già trước, trò chào thầy trước. Nếu bề trên không chào lại người dưới, thầy không chào lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác gì từ chối người khác, làm cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình. Không biết vái, chào lại người khác là đã tự làm mất đi phong cách lịch duyệt của chính mình.
Theo Đạo giáo (Lão giáo), chủ trương “tay trái” là “tay tôn kính” vì theo tập quán “Người nước Sở trọng tay trái, mà Lão Tử lại là người nước Sở,” ví thế nên “phía bên trái” được coi trọng.
Khi cúng tế, người ta dùng tay trái để cắm nhang vào lư hương. Khi quì lạy, bàn tay phải nắm lại, bàn tay trái bao nắm tay phải, đưa hai tay lên giữa hai lông mày rồi quì xá xuống đất. Khi lạy xuống thì quì gối phải trước rồi mới tới gối trái. Khi đứng lên thì gối trái co lên trước kế đến gối phải rồi toàn thân đứng lên. Cũng có nơi quì hai gối xuống và lên cùng một lúc. Phật giáo khi lạy thì chấp hai bàn tay lại rồi xá xuống, còn Đạo giáo thì nắm bàn tay như trên, hai bên có hình thức khác nhau.
Ngày xưa, người ta lấy hình thức “bốn lần quì thực hiện tám lần xá” gọi là “lễ kính tối cao.” Nữ cư sĩ thì lạy có khác với nam cư sĩ, hai gối quì một lượt, nắm tay chỉ cần đưa ngang cổ rồi xá xuống một cách nghiêm cẩn là được.
Tư thế thắp hương lễ bái là, tay phải cầm nhang, tay trái bao ngoài tay phải, đưa lên ngang ngực (không cần phải đưa lên tới ngang hai lông mày hoặc lên khỏi đầu). Đầu nhang hơi nghiêng xéo một chút, nếu xá cao cũng không đưa nhang quá hai lông mày, nếu xá thấp thì từ ngực xá xuống, giống như vẽ thành một nửa vòng tròn.
Nếu không cầm nhang thì hai tay nắm lại như trên, đưa lên ngang ngực, đầu cúi xuống thành nửa vòng tròn.
Về mặt phẩm vật cúng tế, Đạo giáo chọn “tứ hỉ ngũ quả,” cúng dường bốn món, sáu món, bảy món hoặc mười món, chứ tuyệt không có chủ trương giết heo mỗ dê để cúng tế.
– Tứ hỉ gồm : Trà, rượu, mì sợi, cơm.
– Bốn món cúng dường là : bông hoa, nước trà, nhang, đèn sáp.
Trong đó, nhang tượng trưng cho sự “vô vi,” bông hoa tượng trưng cho “tự nhiên,” nước trà tượng trưng cho “thanh tịnh,” đèn sáp tượng trưng cho sự “thuận hóa : biến hóa theo chiều thuận,” nghĩa là bốn món nêu lên ý niệm cơ bản của Đạo giáo : “thanh tịnh, vô vi, tự nhiên, thuận hóa.”
– Bảy món cúng dường là : nhang, hoa, đèn sáp, nước trà, trái cây, cơm, âm nhạc.
– Mười món cúng dường là: nhang, đèn , bông , trái, trà, cơm, rau cải, vàng bạc, châu ngọc, y phục.
Thủ Tục / Diễn tiến Tế Lễ.
Diển tiến buổi Tế tương tự như lớp lang của một bản kịch ngắn mà ban Tế cần hiểu biết trước thật rõ ràng; đôi khi phải tập dượt nhiều lần cho suông sẻ, để giữ sự long trọng của buồi tế. Chi tiết diễn tiến thay đổi tùy miền, tùy loại Tế.
Sau đây xin liệt kê thủ tục điễn tiến của một buổi lễ tiêu biểu (của một giòng họ). Thủ tục sẽ được Đông xướng, Tây xướng (hay Nội tán) đọc lớn từng bước, làm từng giai đoạn một – Ngày nay, chỉ nên đọc (hoặc làm) phần chữ Việt trong ngoặc là đủ) :
1. Khởi chinh cổ (Nổi trống chiêng)
2. Nhạc sinh tựu vị (Ban nhạc vào vị trí)
3. Củ soát tế vật (Kiểm tra lễ vật cúng)
4. Chấp sự giả các tư kỳ sự (Những người phụ trách cúng vào vị trí của mình)
5. Tế chủ dữ chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở (Chủ tế và mọi người phụ trách cúng vào chỗ rửa tay)
6. Quán tẩy (Rửa tay)
7. Thuế cân (Lau tay)
8. Bồi tế viên tựu vị (Bồi tế vào vị trí)
9. Chủ tế viên tại vị (Chủ tế vào vị trí)
10. Thượng hương (Dâng hương)
11. Nghinh thần cúc cung bái (Chủ tế và bồi tế lạy sụp cả xuống)
12. Hưng (Chủ tế và bồi tế đứng dậy)
13. Bái (Lạy)
14. Hưng (Đứng dậy)
15. Bình thân (Đứng ngay thẳng)
16. Hành sơ hiến lễ (Lễ dâng rượu lần đầu)
17. Nghệ tửu tôn sở, tư tôn giá cử mịch (Chủ tế đi ra chỗ án để rượu, người chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài ra)
18. Chước tửu (Rót rượu)
19. Nghệ đại vương thần vị tiền (Hai người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu nhất)
20. Quỵ (Tế chủ và bồi tế quỳ cả xuống)
21. Tiến tửu (một người chấp sự dâng đài rượu đưa cho tế chủ vái một vái rồi giao trả người chấp sự)
22. Hiến tửu (các người chấp sự dâng rượu đi hai bên, hai tay nâng cao đài rượu đi vào nội điện. Xong trở ra)
23. Hưng, bình thân, phục vị
24. Độc chúc (hai người chấp sự vào bàn trong kính cẩn bưng văn tế ra)
25. Nghệ độc chúc vị (người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu trên)
26. Giai quỵ (tế chủ, bồi tế, hai người bưng chúc đọc chúc đều quỳ cả xuống)
27. Chuyển chúc (người bưng chúc đưa cho chủ tế. chủ tế cầm lấy, vái một vái rồi đưa cho người đọc chúc)
28. Độc chúc (người đọc chúc lần này đọc bản văn tế. Đọc xong văn tế, chủ tế lạy hai lạy rồi ra phía ngoài. Sau đó lại xướng lễ trở lại để dâng hai tuần rượu nữa. Tuần thứ hai là Á hiến lễ và tuần thứ ba gọi là Chung hiến lễ)
29. Ẩm phúc (hai người vào nội điện bưng ra một chén rượu và một khay trầu)
30. Nghệ ẩm phúc vị (người chủ tế đi ra bước lên chiếu thứ nhì)
31. Quỵ (tế chủ quỳ xuống. hai người đưa chén rượu, khay trầu cho chủ tế)
32. Ẩm phúc (chủ tế bưng lấy chén rượu vái, lấy tay áo che mồm uống một hơi hết ngay)
33. Thụ tộ (chủ tế cầm khay trầu vái rồi ăn một miếng)
34. Tạ lễ cúc cung bái (chủ tế và bồi tế cùng lạy tạ bốn lạy)
35. Phần chúc (người đọc chúc đem văn tế đốt đi)
36. Lễ tất (tế đã xong)
(theo http://kyyeu2010.truongvan.com/?)
Trong buổi Tế lễ này có mấy điều chú ý như sau
– Khi chủ tế di chuyển đổi chỗ trên các chiếu, từ chiếu dưới lên chiếu trên thì phải bước ra khỏi chiếu rồi bước lên về phía bên phải của mình, và khi trở xuống cũng bước ra khỏi chiếu trở về phía bên trái của mình tức là bên phải của bàn thờ.
– Hai người bồi tế ngoài nhiệm vụ phụ giúp chủ tế trong việc hành lễ còn có nhiệm vụ thay thế người chủ tế nếu người này vì bất cứ lý do gì không hành lễ được.
– Khi đốt sớ, mọi người dự tế đều phải đứng quay mặt và ngó vào chỗ đốt sớ.
Văn tế, văn chúc
Bài văn Tế thường do Chủ tế đọc. Nhưng cũng có thể do một người nào đó trong ban Tế đã được chỉ định trước. Ngày xưa, bài Văn Tế thường viết bằng chữ Hán… Tuy nhiên ngày nay dân gian dùng thẳng chữ Quốc ngữ (tương tự như văn khấn của cúng giỗ).
Cụ Dương Quảng Hàm định nghĩa văn tế ‘là một bài văn đọc lúc tế một người chết để kể tính nết công đức của người ấy và tỏ tấm lòng kính trọng và thương tiếc của mình’ (Dương Quảng Hàm. Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, Sài Gòn, 1968. Tr144). Định nghĩa như thế cho nên Cụ Dương đã chia các đoạn mạch của một bài văn tế ra như sau:
1/ Đoạn mở bài
2/ Đoạn kể công nghiệp, đức tính của người chết
3/ Đoạn than tiếc người chết
4/ Đoạn tỏ tình thương nhớ của người đứng ra làm lễ tế.
Tuy nhiên, bài văn tế có thể có các bố cục hơi khác một chút tùy một loại Tế.
Bài Văn tế tiêu biểu
(bài này thấy xử dụng ở Lăng Ông Bà Chiểu và ở các đình làng Miền Nam). Lược dịch phần Lòng linh của bản Văn Tế Túc yết :
Thưa rằng :
Kính cẩn thưa Đức Thượng Công là sao sáng của song núi, do khí linh thiêng của song biển đúc thành. Chức giữ ba quân, đánh Bắc, dẹp Đông. Công mở nước thật không phải nhỏ. Quyền hạn đảm đương muôn dặm, miền Đông yên, vùng Tây lặng. Sức giữ yên đất nước, khó có ai tiến tăm bằng. Lúc sống thì làm tướng, khi chết trở nên Thần sáng rực rỡ vang lừng mà tiếng hiển hách chói lọi cao. Lúc vua nguy khốn thì phò, khi nướv yếu thì trợ. Hiếm có thay lúc Ngài sống đã tranh đấu cho sự vinh dự. Giúp đỡ dân mà hiển hách. Rất đẹp mà linh thiêng.
Thưa rằng, nhân lúc trời mùa Thu, cử hành lễ Túc Yết cung kính. Làm lễ vào buổi sáng sớm. Xin cáo với bậc Thần minh cảm nhận cho. Khấn nguyện bằng lễ này mong Ngài độ trì phù hộ. Vòi vọi ở trên đó, ngửa trông ban điềm lành, ban phước. Cao cả nơi linh thiêng, tất cả bằng Thần lực, không có điều xấu, không có thanh âm. Cúi lậy Đức Thượng Công ban cho thêm ân huệ.
Nay cúi lậy kính cẩn mà thưa vậy.
Lược dịch phần Lòng linh của bản Văn Tế Đoàn Cả:
Thưa rằng:
Kính cẩn thưa Đức Thượng Công, là bậc mở nước có công đầu, ít có ai trong triều đình lại giúp vua lớn như thế.
Làm hưng thịnh lên, phụ tá rực rỡ, quét sạch bọn tàn bạo, Làm bậc hổ tướng với quyền tước đương thời, dẹp yên bọn Chân Lạp, Xiêm La gian tham.
Tướng tài ít có hai, tài thao lược giúp được nhiều công lắm. Quốc sĩ vô song, trí dũng đáng tôn xưng là lớn cả.
Trải hơn 10 năm, dẹp yên quân cường khấu, tiếng thơm lừng lẫy chốn quân triều.
Mấy chục năm trời, đứng đầu nơi phiên trấn, oai dũng vang xa đều biết tới.
Hết lòng nuôi dân, mến kẻ sĩ, phong cách bậc nhân được nhớ lâu bền ở lòng người.
Để ý giúp đời trị nước, thành tích chánh đáng mãi còn trong sử chép Kính trọng lập đàn mà bái vọng, nghiễm nhiên lẫm liệt oai hùng,
Tôn sùng miếu vũ mà nhớ công cao cả dương dương chính khí.
Trộm nghĩ rằng:
Hội đã trải qua nhiều nỗi gian khổ mà giữ sự thờ cúng bằng cách chỉnh tu Lăng Miếu cho lâu dài,
Gặp nhau mà bàn tán thu góp tiền bạc tu bổ hầu trang trải các kinh phí xây cất.
Hết lòng truy tìm vết tích cũ để hoài niệm và tưởng nhớ khôn nguôi đến Đức Thượng Công.
Lòng xúc cảm mà ngưỡng mộ không dứt.
Nghĩ rằng:
Nhân lúc tiết trời mùa Thu, nhớ lệ cũ mà ca diễn, kính cẩn làm lễ dâng cỗ bàn thanh khiết, mong chứng giám cho sự thờ kính này.
Kính dùng nhang đèn, mong Ngài hiểu cho lễ đơn giản yên lặng,
Ngửa trông Ngài ban đến mọi nhà trong thôn làng đều được phong hanh.
Nhận hưởng ở lòng thành, lũ bản Hội những mong ơn tốt đẹp.
Nay kính cẩn mà thưa vậy.
Hai đọan Long linh ở trên được ghi chép lại / trích từ bản Văn tế theo diễn tiến của lễ Kỳ yên (1) Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Ghi chú:
(1) Tế Kỳ yên, Tế kỳ phúc, là gì ?
– Theo Phan Kế Bính, ờ miền Nam, các lễ hội lớn gọi là Kỳ Yên; và .ở đồng bằng sông Hồng, Bắc phần, cũng theo Phan Kế Bính ghi lại, hàng năm làng tổ chứcTtế Kỳ phúc (cầu an, cầu phước), từ 10 tháng 2 đến 15 tháng 2 với nghi thức và nội dung giống hệt như Kỳ Yên ở miền Nam – Lễ tháng 2 là Tế Kỳ Phúc còn gọi là “Xuân tế.”
– Sách “Gia Định thành thông chí” (mục Phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn giới thiệu lễ Kỳ yên ở miền nam xưa như sau:
Cúng Kỳ yên : mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về…
Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiều lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc, thứ tự & chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau:
Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội.” Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới,” nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.
Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.
Trần Văn Giang (7/22/2011) Trang chính | Albums | Lưu trữ | Quản lý
Các Bài Văn tế Của GS Vũ Khiêu.
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG – Vũ Khiêu (Phụng Thảo)
Đăng bởi nguyenminhhuong vào lúc 22:48 ngày 03/04/2010
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG – Vũ Khiêu (Phụng Thảo)
Cách đây Mười lăm năm , nhà thơ Vũ Khiêu đã sáng tác bài thơ này nhân kỷ niệm ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Cụ Trần Diệu rất tâm đắc với bài thơ này và Cụ đã chép lại cẩn thận vào Sổ tay Thơ của mình. Hôm nay cụ đã cho tôi xem cuốn sổ nhỏ ghi chép rành mạch những bài thơ hay cụ Sưu tầm và những bài Thơ cụ tự sáng tác, cụ giữ hơn mười lăm năm nay và cũng đã kín hết …Cụ Trần Diệu cho phép tôi đăng nguyên văn bài thơ cuả nhà thơ Vũ Khiêu gửi tới mọi người thưởng thức. Xin cảm ơn Cụ Trần Diệu- Kính Chúc Cụ Thượng Thọ!!!
Trống Đồng dội tới
Núi sông dậy sấm anh hùng,
Trống Đồng vang lên,
Trời đất ngút ngàn linh khí!
Toàn dân Giỗ tổ Hùng Vương
Cả nước vui ngày Quốc lễ.
Rộn rã trống chiêng
Tưng bừng cờ xí!
Bừng lên nhật nguyệt
Mây xanh Hạc trắng ,Bát ngát trường thiên,
Rực sáng Sơn hà
Cờ đỏ sao vàng,Thênh thang Thánh địa.
Thuyền xuôi sóng vỗ
Sông ba dòng tưới mát muôn phương
Hổ lượn Rồng bay,
Núi trăm ngọn chầu về một phía.
Từ đỉnh cao muôn trượng cơ đồ,
Cùng nhìn lại bốn mươi thế kỷ.
Núi mây :sừng sững Công Cha.
Sông nước dạt dào Nghĩa Mẹ.
Nhớ thuở xưa –
Mẹ Âu Cơ
Từng non cao tỏa sáng nghĩa nhân.
Cha Long Quân
Vốn biển cả quật cường mưu trí.
Sánh đôi tài sắc : Kim cổ kỳ phùng.
Họp một âm dương: Uyên ương tuyệt mỹ.
Đẹp gia đình Trăm trứng , Trăm con.
Vai Sơn Thủy một lòng một ý
Cuộc mưu sinh thử thách muôn vàn.
Đường lập nghiệp gian nan xiết kể
Nào rừng rậm, đầm lầy ,núi thẳm sông sâu.
Há quản xông pha
Nào kinh nghê, hổ báo, bệnh tật , bão giông.
Lấy gì bảo vệ?
Chia con :Hai ngả lên đường,
Chọn trưởng một ngôi kế vị.
Giang sơn một khoảnh sao cho vạn đại trường tồn?
Rừng – Bể đôi nơi cùng dựng bốn phương hùng vĩ.
Hiên ngang thay! Phù Đổng diệt thù
Dũng cảm thay! Sơn tinh trị thủy.
Đẹp thay Chử đồng Tử
tình yêu như Ngọc sáng , gươngtrong
Giỏi thay Mai An Tiêm!
Lao động như dời non lấp bể.
Vẻ vang mười tám Vương triều.
Rực rỡ một thời Thịnh trị.
Qua gian nan bao độ nổi chìm,
Trải thử thách những hồi hưng phế!
Chí công lao khai phá một thời kỳ.
Mà uy lực trải dài trăm thế hệ !
Hãy xem như :Gái anh hùng : Triệu Nữ, Trưng Vương,
Trai dũng lược: Đinh Tiên ,Lý Đế!
Sông Bạch Đằng cuồn cuộn thế Ngô Vương.
Gió Như Nguyệt vang vang lời Thái úy.
Hội Diên Hồng rung chuyển cả Trăng Sao
Hịch Hưng Đạo, xốn xang toàn trán sĩ
Nằm gai nếm mật mươi năm ròng,Bạt vía làVươngThông.
Lở đất long trời, một trận đánh, tan hồn quân Sĩ Nghị!
Thế kỷ Hai mươi,
Cờ giải phóng xua tan bóng tối
Danh Bác Hồ vang động Đông tây.
Khắp hoàn cầu, hết nạn thực dân
Mộng đế quốc tan tành mây khói.
Thế mới biết:
Nước giàu, không chỉ Quân hùng
Dân mạnh còn nhờ Đạo lý.
Coi Sơn hà xã tắc là thiêng
Lấy Độc lập Tự Do là quý.
Chúng con nay :
Sáu mươi mốt tỉnh thành, nhớ lại Tổ Tông.
Năm mươi tư dân tộc : tìm về cội rễ.
Bốn phương : Nam ,bắc, Đông, Tây
Trăm họ : Gái trai , già ,trẻ.
Hân hoan muôn dặm trùng phùng,
Kính cẩn một chầu đại lễ.
Xin Tổ Vương vạn thế linh thiêng.
Giúp con cháu đôi điều chỉ vẽ.
Nay gặp buổi : Đảng ta đổi mới tư duy
Dân ta mở mang Kinh tế.
Dù dân gian chưa hết đói nghèo
Dù Xã hội vẫn còn Nạn tệ
Đường lên Giàu mạnh đã thênh thang.
Nẻo đến Văn minh thêm mới mẻ !
XIN CÚI NGUYỆN
Trăm con một bọc:
yêu thương nhau như ruột chan hòa
Một gốc trăm cành,
gắn bó mãi như keo sơn chặt chẽ.
Dựng cơ đồ, chị ngã em nâng,
Cơn hoạn nạn bầu thương lấy bí
Trước tương lai mở rộng tâm hồn.
Vì sự nghiệp nâng cao Trí tuệ.
Bác Hồ day : hoàn thành nhiệm vụ
Vượt mọi khó khăn, thắng mọi quân thù.
Bác Hồ răn : Uy vũ coi thường
Chớ ngại nghèo nàn, không ham Phú quý
Dấn thân cho Nước há ngại Tử – Sinh?
Hết dạ vì dân, kể gì khó dễ.
Giữ muôn đời Hồng Lạc Tinh Hoa
Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế!!!
Đền Hùng – Ngày 10-03-2000
Vũ Khiêu (Phụng Thảo)
Truy điệu những lương dân chết đói |
|
Truy điệu những lương dân chết đói Đó là bài Văn tế nạn nhân vụ đói tháng 3-1945 mà GS Vũ Khiêu đã viết trong nước mắt giữa một đêm mưa dầm gió lạnh, đau xót cho những thân phận dưới một bầu trời đen tối, nửa như trần gian nửa như âm phủ. Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả bài văn tế này. Một cơn gió bụi vừa tan (1) *** Hỡi những bóng điêu linh Tháng 5 năm 1945 GS VŨ KHIÊU (Báo Nhân Dân) (1) Gió bụi, chữ Hán là “phong trần” chỉ những biến cố lớn lao làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống của con người. Ở đây, tác giả muốn chỉ cuộc đánh chiếm Ðông Dương của phát-xít Nhật và nạn đói khủng khiếp do chúng gây nên hồi giữa thập kỷ 40 của thế kỷ 20. (2) Nạn đói do phát-xít Nhật gây ra năm 1945 đã làm cho hơn 2 triệu dân ta bị chết đói. (3) Cơ là đói kém, hàn là lạnh buốt. Cảnh cơ hàn là cảnh đói rét. Ở đây tác giả nói tới cảnh chết đói năm 1945. (4) Liên đoàn: Tổ chức do bọn Nhật lập ra hồi những năm 1944 – 1945 chuyên thu mua thóc của dân ta. (5) Máu biếc (Bích huyết): Trương Hoàng đời Chu bị chết oan ở nước Thục, ba năm đào mả lên, thấy máu không tiêu mà lại hóa ra sắc biếc. |
Văn Hóa thể thao & Du Lịch tỉnh Vĩnh Phúc
Lễ Tế
Thể lệ của cuộc tế.
Lễ tế thần thực hiện ở các thôn làng thực chất là lễ cúng theo nghi thức long trọng, có cử hành âm nhạc của phường nhạc trong hành lễ
Lễ tế lớn (đại tế) ở các làng gồm có lễ kì phúc, về mùa xuân, lễ “hiện hoá” (với các vị nhiên thần); lễ ngày “thần đản” (ngày sinh), “thần kị” (ngày mất – với các vị nhân thần) và hơn cả là ngày lễ tuyên sắc phong của các vị Hoàng đế. Đã có 3 nghi thức trở thành lệ:
Lệ dâng hương:
Dâng hương mở đầu vào cuộc tế thần. Đốt hương thường theo số lẻ từ 1 đến 3 hoặc 5 nén, đều là các số dương sinh.
Lệ dâng rượu.
Sau khi hương được đốt lên, rượu được rót ra, khi ấy khói hương, hơi rượu xông lên, là biểu tượng nối âm với dương, thời điểm âm dương giao hoà, thánh thần xuất hiện. Đây là khi các hoạt động tâm linh bắt đầu và thực sự thiêng liêng.
Lễ hiến sinh:
Trong mỗi kỳ cúng tế, không có lễ vật bị coi là không thiêng liêng (vô vật bất linh). Thường trong cuộc tế, các lễ vật thường được tiến lên trứơc. Vị chủ lễ (ở đây là chủ tế) thường được dẫn lên xem xét gọi là “củ sát tế vật” (xem ở mục “bài xướng tế”).
Các tiến trình của cuộc tế:
Lễ cáo yết (còn gọi là lễ cáo tế)
Là lễ trình với thần linh về việc dân làng sẽ tổ chức tế lễ sự thần. Thường vào buổi chiều hoặc buổi đêm trước ngày chính tế. Lễ thường chỉ có một tuần hương, một tuần rượu và sau đó là tuyên chúc văn, nói rõ lý do của cuộc đại tế.
Lễ chính tế:
Lễ tế vào ngày chính, ngày của công việc sự thần. Để có một cuộc tế, mỗi năm dân làng phải họp công đồng một ngày để bầu ra một ban tế, nhiệm kỳ là một năm, với các chức danh được bầu chọn.
Thiết chế của một lễ tế:
Cổ thư đã có lời bình về lễ tế “Tế đắc chí kì nghiêm”, nghĩa là việc cúng tế phải hết sức nghiêm chỉnh.Vì phần cúng tế phải cẩn thận thì hồn khí (phi vật thể) mới trở lên trời, hình phách (vật thể) mới trở về đất. Cho nên cúng tế là cầu ở lẽ âm dương, tức là sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố “lý” và “khí”, là sự kết hợp giữa hai hiện trạng văn hoá ứng xử: vật thể và phi vật thể.
Bởi vậy, dù lễ tế được thực hiện ở đâu thì không gian thần điện ở đó cũng trở nên rất thiêng liêng, dù là thần điện có kiến trúc hoặc thần điện phi kiến trúc.
Các đồ tự khí (đồ thờ) làm tăng vẻ huyền bí, làm rộn lên vẻ hoành tráng trong không gian thờ thần. Khi muốn tổ chức một lễ tế, các làng thôn đều theo một mô hình chung đầy đủ để mời thần điện uy nghi như chốn cung đình, đó là sự bày biện đồ tự khí bao gồm:
Những thiết chế hạ tầng: Nghĩa là những cơ sở vật chất cần phải có:
Các đồ tự khí:
Hai cái đẳng gỗ, đặt hai bên Đông xướng – Tây xướng có lọng che. Trên các đẳng gỗ bên Đông đặt cây đèn, bình hương, bình hoa, cái tam sơn đặt 3 đài rượu gọi là bàn “Đông bình”. Viên Đông xướng đứng xướng tế ở đây. Trống hiệu đặt bên dưới bàn đông bình.
Trên cái đẳng gỗ bên Tây đặt cây đèn, bình hoa, đĩa trầu cau gọi là bàn “Tây quả”. Viên Tây xướng đứng ở đây. Chiêng hiệu đặt bên Tây (bên chiêng, bên trống).
Hai cây đèn dùng để dẫn khi lên hương, lên rượu. Là biểu tượng của hai bầu tinh tú mặt trời, mặt trăng, ý nghĩa là “nhật nguyệt quang minh” – mặt trời, mặt trăng cùng sáng. Có thể làm bằng đồng, nhìn chung đều làm bằng gỗ mít.
Cái tam sơn đựng ba đài rượu dùng hiến tước 3 tuần, là biểu tượng của “tam tài” – thiên, địa, nhân.
Cái nậm rượu lễ đặt ở bàn Đông xướng.
Cây quán tẩy:
Là cái giá để đựng chậu nước cho các viên chủ tế, bồi tế, chấp sự rửa tay sạch sẽ khi vào hành tế.
Cây quán tẩy ở một số di tích trong tỉnh đều là một công trình chạm khắc gỗ rất tinh xảo. Cây quán tẩy ở miếu Bà, thôn Phù Liễn, xã Đồng Tĩnh được tạo trên một khúc gỗ tròn, chạm lộng thành hình cây “trúc hoá long”. Trên ngọn của cây trúc là hình một con chim phượng đậu lắt lẻo, đầu mỏ chúc xuống. Một chiếc lá sen xoè ngửa giữa thân cây trúc như một cái chậu nâng, mỏ con phượng chúc vào điểm giữa.
Khi “quán tẩy” một viên chấp sự lấy bình rượu còn tinh khiết (chưa qua cúng lễ) hoặc một loại nước thơm đổ vào miệng lỗ thông từ lưng con phượng. Nước chảy qua ống dẫn xuống mỏ phượng, chảy xuống lá sen. Những quan viên tế thực hiện cuộc “quán tẩy” ở đó.
Lỗ bộ:
Nói chung ở các di tích thờ tự tín ngưỡng đều có bộ “lỗ bộ”. Ngày có lễ tế thì đem trưng bày hai bên Đông – Tây xướng cho thêm phần uy nghi, hoành tráng.
Bảng chúc:
Mộc bảng có dạng hình chữ nhật nằm ngang, đặt đứng nghiêng khoảng 100, trên cái giá đỡ là thân hai con ly đứng hai bên, mặt bảng ngửa về phía sau. Ngày tế lễ, bài văn chúc dán lên bảng chúc, lại có một miếng vải thêu hình hổ phù che lấy bài văn chúc, khi đọc mở ra, thể hiện sự tôn kính thần linh.
Ngoài ra còn một số đồ dùng khác như: Bốn chiếc chiếu cói mới dùng cho hành lễ, trải thành hàng dọc trước điện thần. Chủ tế và bồi tế thực hiện nghi lễ trên đó. Mỗi kỳ tế lại thay mới một lần cho tinh khiết.
Y phục của các quan viên tế:
Thường dùng trong vài hoặc mười năm thay mới một lần cho sang trọng, gồm có:
Chủ tế: Riêng một màu, thường là màu đỏ, vì đỏ thuộc hành hoả, phương vị ở phía Nam nóng ẩm, mọi vật sinh sôi. Tế lễ là cầu mong cho sự sinh sôi nên chủ tế nhiều làng mặc áo màu đỏ, có cân đai, bối tử.
Các viên bồi tế: Dùng chung một màu cho mũ áo, thường là màu tím.
Các viên chấp sự: Dùng chung một màu, thường là màu xanh lam.
Tất cả đều đội mũ kiểu phốc đầu, áo tay thụng, quần màu trắng kiểu ống sớ, chân đi hia.
Các loại quần áo này dùng xong đóng hòm, quản ở di tích.
Thành phần ban tế:
Chủ tế: Một người, còn gọi là mạnh bái, thứ bậc xã hội là hàng mệnh quan, thứ bậc tâm linh là vị con trưởng nhà Thánh.
Về nhân thân, chủ tế là người được dân làng kén chọn kỹ càng nhất trong thành phần ban tế. Thường là bậc cao niên, khoẻ mạnh, vóc dáng phương phi, có chức sắc phẩm hàm, có học vị ngoài xã hội càng quý, gia đình song toàn, đông đúc, thê vinh, tử vượng. Các tiêu chí làng xã đều xếp bậc cao, gia đình có văn hoá.
Tục lệ làng Đồng Vệ tổng Đồng Vệ phủ Vĩnh Tường (nay thuộc xã Đại Đồng) có điều khoản:
“Viên chủ tế nghĩa là thay quyền diện cho cả dân làng, phải chọn cử viên Chánh tổng, Phó tổng, Hương hội. Chánh phó lý đương cựu, xuất đội hưu trí, có phẩm hàm, chồng vợ song toàn, con cháu hưng vượng và không cớ nế (như tang chế, “nhân thân bất túc”, khuyết tật…), biết nghi tự (cách thức cúng tế), trong nhà thanh cát, tỉnh hạnh cẩn khiết (cẩn thận, liêm khiết) thời cử làm chủ tế nhưng tiệc lệ mỗi ngày (tức mỗi năm) lại cử một viên” (1)
Làng Báo Văn xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc có tục lệ chọn chủ tế rất độc đáo. Ngày mùng 6 tháng giêng hàng năm có lệ “đánh đáo đá” chọn chủ tế.
Các hòn đá này thường ngày đặt thờ trên thần điện.
Nội dung: Tại sân đền, đào một cái hố dài, dưới đáy hố cắm hai cây cọc, đầu cọc nhô lên miệng hố khoảng 20cm. Có 8 viên đá hình tròn dẹt được mài nhẵn dùng làm hòn đáo.
Chọn 6 người trong làng tuổi từ 50 trở lên không kể có chức sắc hay dân thường, miễn là chồng vợ song toàn, thê vinh tử vượng vào ném đá. Mỗi người được ném hai lần. Ai ném đá trúng vào thân cây cọc, hòn đá lăn xuống vào tờ giấy điều trải dưới chân cọc là được. Người được chọn làm chủ tế là người có hòn đá sát chân cọc nhất.
Đó là một nghi thức có gốc gác xa xưa từ tín ngưỡng thờ đá, một tín ngưỡng nguyên thuỷ đi vào cuộc sống.
Nói chung, vị chủ tế là phản ánh cao nhất về nét đẹp văn hoá của cộng đồng làng.
Bồi tế: 4 người
Là người đứng giúp chủ tế, đứng hàng chiếu dưới của chủ tế và trông theo người chủ tế mà làm lễ, lễ theo chủ tế.
Thường bầu hai bồi tế, tối đa là bốn bồi tế đều thuộc hàng số chẵn.
Các vị tế quan: Giúp việc trong cuộc tế.
Nội tán: Có hai người. Một người đứng đằng Đông, một người đứng đằng Tây để dẫn người chủ tế ra vào khi hành lễ và trợ xướng khi chủ tế vào chiếu trong (chiếu nghinh thần), chuyển chúc.
Đông xướng: 1 người
Người này đứng ở bàn bên Đông, ngang với chiếu phục vị làm phận sự xướng tế, điều hành cuộc tế theo nghi thức có trong bài tế đã định sẵn.
Bàn có lọng che, người Đông xướng đứng dưới lọng. Trên bàn bày đèn hương, bình rượu tế, cái đẳng rượu, trong đài đựng các chén rượu, nên bàn Đông xướng còn gọi là “Đông bình”.
Tây xướng:
Người này đứng ở bàn bên Tây đối xứng với bàn Đông xướng cũng làm phận sự xướng tế, phụ giúp cho người Đông xướng.
Bàn có lọng che, trên bàn bày cây đèn, đĩa trầu cau nên còn gọi là “Tây quả”. Người Tây xướng đứng dưới lọng.
Chấp sự:
Là người giúp việc ở hai bàn Đông – Tây xướng, chia đứng hai bên, mỗi bên ba người, giúp việc dâng hương, dâng rượu.
Thủ hiệu:
Bên trống: Điều hành cuộc tế bằng trống cái.
Bên chiêng: Điều hành theo lệnh của trống cái.
Đọc chúc: 1 người
Người này được kén là người thông văn tự vì phải đọc bài văn tế bằng nguyên bản chữ Hán Việt theo âm điệu, có giọng đọc sang sảng vang xa, gây truyền cảm và xúc động.
Đoàn tế có các thành phần như thế này được gọi là đoàn tế đủ, đủ thành phần hoặc tế kép, chữ kép với ý nghĩa có cấu tạo một thành phần theo cấu trúc âm dương bên nhau và đối xứng qua một đường giả tưởng – đường thần đạo.
Ngày nay, trong các buổi tế thần (kể cả cuộc rước) ở nhiều làng, ngoài sự hiện diện của các nhạc công cử nhạc lễ còn có đội nữ múa sinh tiền phụ hoạ sau vị chủ tế, đã có vai trò quan trọng trong nghi lễ, tạo thành một lớp diễn xướng rầm rộ, giữ vai trò trung gian giao cảm giữa thế giới trần tục và thế giới thần linh qua chính sự hoá trang y phục sặc sỡ cùng các động tác diễn uốn của mình, qua sức lôi cuốn của âm nhạc hợp vào toàn thể không khí sinh hoạt của hội lễ.
Chiếu tế:
Khi vào cuộc tế, trải 4 chiếc chiếu theo hàng dọc trước thần điện: Chiếu thứ nhất: Gọi là chiếu “nghinh thần”, chiếu giành riêng chỉ khi làm lễ nghinh thần, đọc chúc, vị chủ lễ đứng hiến lễ ở đây.
Chiếu thứ hai: Gọi là chiếu “thụ tộ” tức là nơi chủ tế lên hưởng lộc của thần thánh ban cho (uống rượu tế, ăn miếng trầu cau đã tế lễ).
Chiếu thứ ba: Gọi là chiếu “phục vị”, hay chiếu “tế chủ” là chiếu giành riêng cho chủ tế trở về (điểm xuất phát).
Chiếu thứ tư: Gọi là chiếu “Bồi tế”, chiếu giành riêng cho các vị bồi tế hành lễ,
Các chiếu này chỉ dùng một lần nên đều là đồ mới tinh khiết.
Làng Quan Tử xưa xây dựng và quản lý việc thờ tự ở 3 di tích: Miếu Quan Tử thờ Đỗ Khắc Chung; Đền thờ Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn; Đình Bác Cổ là hội sở làng vì thế một năm có nhiều lễ tế.
Thành phần đoàn tế làng Quan Tử chỉ có 10 người, được phân ra như sau:
– Chủ tế: 1 người
– Bồi tế: Không có.
– Đông xướng: 1 người
– Tây xướng: 1 người
– Chấp sự: 4 người
– Đọc chúc: 1 người
– Thủ hiệu: 2 người (1 bên trống, 1 bên chiêng).
Nhưng hai viên thủ hiệu lại không tính vào thành phần ban tế (ban tri lễ). Vậy chỉ có 8 người chính thức đứng vào ban tri lễ.
Tế đơn với số lượng đoàn tế 8 người là bắt đầu có từ thời cải lương hương chính. Việc tế lệ giao chuyên cho những chân phó lý hương đăng (chức phó lý mua, chuyên lo công việc mãi lễ trong làng). Hương ước của làng có ghi một điều khoản “… khi hành lễ đã có 8 người cai phó hương đăng, nếu không bầu được thì thời hương hội, lý dịch cùng vào hành lễ…” (1), lâu dần thành lệ. Ngày nay lễ tế được phục hồi, vẫn tế theo thể thức 8 người mà chưa phục hồi thể thức tế truyền thống nên khi tế chỉ có 3 chiếu (thiếu chiếu bồi tế).
Âm nhạc dùng trong lễ tế:
Một cuộc tế nghi thức được coi là hoành tráng thể hiện trong sự trưng bày, bày biện các đồ tự khí như lỗ bộ, cờ lọng,… Ngoài ra nó còn long trọng ở sự hành tế (nghi thức lên xuống, diễn xướng của các thành phần ban tế), trong đó âm nhạc tế được dùng theo một quy chế nhất định, có thể thức với thiết chế “lên âm”, “xuống nhạc”. “Lên” là khi dâng hương, hiến lễ. “Xuống” là trở về vị trí khi công việc hoàn thành.
Các loại âm nhạc dùng có tính chất lễ nghi, thờ cúng trong việc tế lễ nơi đền miếu đều thuộc phạm trù nhạc lễ.
Ngày nay trong tế lễ ở các làng tỉnh Vĩnh Phúc chỉ còn thấy có thanh âm của các nhạc cụ:
– Bộ gõ: Các loại trống, chiêng, sinh tiền (3 loại nhạc cụ). Sênh tiền dùng trong lễ tế (cả lễ rước kiệu) là để điểm nhịp trong hành lễ, múa theo vị chủ tế hoặc các viên chấp sự lên hương, lên rượu.
– Bộ hơi: Kèn và sáo.
Trong một cuộc tế thường sử dụng 2 bài nhạc:
– Bài “Lưu thuỷ” dùng khi tiến tước, gọi là “lên âm”.
– Bài “Ngũ đối” dùng khi tiến tước hoàn thành, gọi là “xuống nhạc”.
Bài xướng tế và công cuộc hành tế:
Là thể thức thực hiện một cuộc tế. Bài này dùng chung cho các cuộc tế ở các di tích miếu, đền, đình, từ đường dòng họ các làng xã Vĩnh Phúc.
Khởi sự là một vị trong ban tế rung lên 3 hồi trống (trống cái), chiêng, trống chiêng cùng rung lên, tiếng trống trước, chiêng sau – cặp đôi). Tiếp sau, người Đông xướng cất giọng xướng lên: “Khởi chinh cổ” (nổi chiêng trống).
Hai viên chấp sự làm phận sự của thủ hiệu (đánh trống – chiêng cầm hiệu lệnh dẫn tế) đứng ở hai bàn Đông – Tây, đi vào chỗ đặt giá trống, giá chiêng. Một người đánh 3 hồi trống, một người đánh 3 hồi chiêng, rồi mỗi bên đánh thêm 3 tiếng nữa, đoạn vái đi ra.
Người Đông xướng lại xướng: Nhạc sinh tựu vị.
Phường nhạc bát âm nổi lên và đồng văn đánh trống.
Người Đông xướng xướng tiếp: “Củ sát tế vật”.
Một vị chấp sự bưng cây đèn dẫn chủ tế từ bàn Đông xướng đi lên theo hướng Đông, đến bên bàn để tế vật, xem xét lại đồ lễ có đầy đủ, tinh khiết hay không rồi trở về theo bên Tây gọi là “thăng Đông”, “giáng Tây”.
Tiếp đó người Đông xướng xướng tiếp: “ế mao huyết”.
Một người chấp sự cầm cái đĩa đựng một ít huyết và mấy sợi lông của con vật tế đặt lên bàn Tây xướng đem đổ đi. Việc này là để chứng tỏ việc hiến sinh thực sự tươi sống, tinh khiết.
Đông xướng xướng tiếp: “Chấp sự giả các ti kỳ sự”.
Các người chấp sự ai phụ trách việc gì phải chăm chú để giữ việc ấy.
Đông xướng – xướng: “Tế chủ dữ chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở”.
Người chủ tế và các chấp sự đều đến cả chỗ cạnh hương án bàn Đông xướng có một cây quán tẩy đặt cái chậu nước và treo một cái khăn sạch.
Đông xướng – xướng: “Quán tẩy”.
Người tế chủ đưa tay vào chậu nước rửa, rửa tay trước, các chấp sự làm theo.
Đông xướng – xướng: “Thuế cân”.
Người tế chủ lấy khăn lau tay trước, các chấp sự làm theo.
Đông xướng – xướng: “Bồi tế viên tựu vị”:
Các vị bồi tế bước vào đứng ở chiếu thứ 4 (chiếu dưới cùng).
Đông xướng – xướng: “Chủ tế viên tựu vị”.
Chủ tế bước vào chiếu của mình, chiếu “phục vị” (thứ 3), đi vào từ phương Đông, tiến lên chiếu theo hình chữ “ất” gọi là “nhập ất”.
Trong cùng lúc đó, các chấp sự viên cũng về đúng chỗ của mình. Đến đây, cuộc hành lễ bắt đầu.
Đông xướng – xướng: “Thượng hương”:
Hai người chấp sự, một người bưng lư hương, một người bưng hộp trầm (hoặc lấy hương theo số nén lẻ 3 hoặc 5) đem đến trước mặt tế chủ. Tế chủ bỏ trầm vào lư hương đốt rồi cầm lư hương án trước điện vái.
Đông xướng – xướng: “Nghinh thần cúc cùng bái”.
Chủ tế theo 2 viên nội tán (theo sau viên bên Đông) dẫn lên chiếu thứ nhất quỳ xuống, các viên bồi tế quỳ theo.
(Khi bước đi cũng theo nghi thức riêng gọi là “xuất á” – “nhập ất” “Xuất á” là khi trong chiếu bước ra thì đi thẳng rồi rẽ sang bên tay trái, quay một góc 900 để không lúc nào quay đằng lưng vào chính giữa ban thờ. Sau khi quay rồi mới đi thẳng vào chiếu thứ nhất theo lối “nhập ất”).
Trong khi ấy các viên chấp sự hai bên bàn Đông – Tây cử hành dâng hương vào thượng điện theo nhịp trống khẩu điều hành và bài nhạc lễ “lưu thuỷ” (gọi là “lên âm”). Khi đoàn chấp sự hoàn thành việc dâng hương trở về bàn của mình thì bên Tây xướng – xướng: “Hưng” – Tế chủ và bồi tế đứng cả dậy.
Đông xướng – xướng: “Bái” – Tế chủ và bồi tế quỳ xuống lễ.
Tây xướng – xướng: “Hưng” – Tế chủ và bồi lễ lại đứng lên.
Cứ như thế cho đến khi lễ xong 4 lễ (4 lễ nghinh thần).
Đông xướng – xướng: “Bình thân” – Tế chủ và bồi tế đứng ngay người cho nghiêm.
Đông xướng – xướng: “Phục vị” – Tế chủ quay về chiếu của mình (chiếu thứ 3).
Cuộc dâng hương kết thúc. Sang tuần dâng rượu.
Đông xướng – xướng: “Hành sơ hiến lễ” (lễ dâng rượu lần đầu).
Người nội tán xướng: “Nghệ tửu tôn sở tử tôn gia cử miùch”.
Tế chủ đi ra án để rượu, người chấp sự mở miếng vải đỏ phủ trên mâm đài ra.
Đông xướng – xướng: “Chước tửu” – Rượu được vị chủ tế rót ra các đài.
Lại xướng tiếp: “Nghệ đại vương thần vị tiền” – Hai người nội tán dẫn tế chủ lên chiếu nhất.
Nội tán xướng: “Quỵ” – Tế chủ và bồi tế quỳ cả xuống.
Đông xướng – xướng: “Tiến tước” – Một người chấp sự dâng đài rượu đưa cho tế chủ – Tế chủ bưng đài rượu vái một vái rồi giao trả người chấp sự.
Đông xướng – xướng: “Hiến tước” – Các người chấp sự dâng rượu đi hai bên, hai tay nâng đài rượu đi vào nội điện xong trở ra.
Đông xướng – xướng: “Hưng” – Chủ tế và bồi tế cùng phục xuống lễ một lễ rồi đứng dậy.
Lại xướng: “Bình thân” – Chủ tế và bồi tế sửa mình cho ngay ngắn.
Đông xướng – xướng: “Phục vị” – Chủ tế đi về chiếu của mình (chiếu thứ 3).
Lại xướng: “Đọc chúc” – Hai người chấp sự vào trong nội điện kính cẩn bưng bài văn tế dán trên bảng chúc ra.
Người nội tán xướng: “Nghệ đọc chúc vị” – Hai người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu nhất.
Đông xướng – xướng: “Quỵ” – Chủ tế, bồi tế, hai người bưng chúc đọc chúc, đều quỳ xuống.
Đông xướng – xướng: “Chuyển chúc” – Người bưng chúc trao bảng văn cho tế chủ. Tế chủ cầm lấy vái một vái rồi trao cho người đọc chúc.
Lại xướng: “Đọc chúc” – Người đọc chúc lần này cất cao giọng đọc bài văn tế.
Tuỳ mỗi làng thờ vị thần nào hoặc tế lễ về nội dung nào thì nội dung lời chúc tuyên về vị thần đó và ngày lễ đó.
Đọc xong văn tế, chủ tế lạy hai lạy rồi lui ra chiếu của mình theo trình tự: hưng, bái, bình thân, phục vị do người Đông xướng điều hành.
Sau đó lại xướng lễ trở lại để dâng hai tuần rượu nữa. Tuần thứ 2 gọi là “á hiến lễ” Tuần thứ hai gọi là “chung hiến lễ”.
Sau 3 tuần “hiến tước” (dâng rượu), phần chính yếu của lễ hiến tế đã xong. Đến phần thụ hưởng của chủ tế
Đông xướng – xướng: “ẩm phúc” – Hai người nội tán vào nội điện bưng ra một chén rượu và một khay trầu cau cúng tế.
Đông xướng – xướng: “Nghệ ẩm phúc vị” – Người chủ tế đi ra bước lên chiếu thứ 2 (chiếu “thụ tộ”).
Lại xướng: “Quỵ” – Tế chủ quỳ xuống, hai người nội tán đưa hai chén rượu, khay trầu cho tế chủ.
Lại xướng: “ẩm phúc” – Tế chủ bưng lấy chén rượu vái một vái, rồi lấy tay áo thụng che miệng uống một hơi hết ngay.
Lại xướng: “Thụ tộ” – Tế chủ bưng khay trầu vái một vái rồi ăn một miếng.
Rượu và trầu là thần linh ban cho tế chủ, tế chủ phải hưởng ngay trước thần điện mới là cung kính. Cũng từ đó lễ vật hiến tế mới trở nên rất thiêng liêng, gọi là “lộc thánh”. Phần lộc này sau tế dân làng được “quân huệ” (chia nhau hưởng) gọi là “thừa thần chi dư” (lấy phần thừa của thần thánh).
Sau đó tế chủ lễ rồi lui ra chiếu của mình.
Đông xướng – xướng: “Tạ lễ cúc cung bái” – Tế chủ cùng bồi tế cùng lạy tạ 4 lạy theo điều hành của các vị Đông xướng – Tây xướng: Hưng, bái, bình thân.
Đến đây kết thúc phần lễ tế của chủ tế, bồi tế
Đông xướng – xướng: “Phần chúc” – Viên nội tán đem tờ văn chúc đốt đi.
Lại xướng: “Lễ tất” – Mọi người trong ban tri lễ vào làm lễ 4 lễ, lễ xong đến phường nhạc.
Đến nhân dân vào làm lễ theo thứ tự tuổi tác, giới tính. Xưa kia chỉ có nam giới, nay nam nữ đều bình đẳng.
Bài văn tế
Trong lễ tế, bài văn tế là hồn của nội dung tế lễ. Xét về văn bản các bài đều được soạn theo một thể nhất định gọi là văn thức.
Thường làng nào có di tích thờ cúng thần thánh đều có tập văn thức dùng cho các ngày tứ quý sự thần của làng mình. Tác giả của các bài văn này đều do các vị túc Nho trong làng biên soạn và được thông qua tập thể các chức sắc và hội Tư văn trong làng, dùng làm tư liệu không thay đổi. Cao hơn nữa, có làng đã mời các bậc đỗ đại khoa (tiến sỹ Nho học) hoặc các vị có chức danh quan trường biên soạn cho sang trọng như: Bài văn tế Tiên hiền làng Tiên Lữ, huyện Lập Thạch do quan Thượng Bồ Tỉnh soạn. Bài văn hoàng trùng (sâu cắn lúa) làng Lý Hải, huyện Bình Xuyên do tiến sỹ Nguyễn Duy Tường (1) soạn. Tập văn tế làng Can Bi, huyện Bình Xuyên do tiến sĩ Ngô Văn Độ (2) soạn…
Về lễ thức, một bài văn tế có 4 phần:
Phần một: Xưng hoàng hiệu nhà vua (quốc hiệu của nước). Ngày… tháng… năm… tế lễ theo kiển sóc can chi (ngày, tháng, năm âm lịch). Địa danh tỉnh, phủ, huyện, tổng, xã, làng, thôn sở tại.
Phần hai: Xưng chức danh của chủ tế, thành phần dự tế. Liệt kê các lễ vật dâng tế.
Phần ba: Khấn đến danh hiệu, huý hiệu các vị tôn thần được mời về dự lễ tế.
Phần bốn: Phần tuyên chúc văn là phần tôn vinh các vị thần gồm chỉ có 4 câu gọi là câu chúc, dùng theo thể phú. Đặt sau hai chữ “cung duy” nghĩa là “kính nhớ”.
Câu 1: Nêu xuất xứ, đức độ của thần.
Câu 2: Nêu công ơn sâu rộng của thần với nước, với dân.
Câu 3: Nêu rõ lòng ngưỡng mộ của làng với thần.
Câu 4: Kính cẩn cầu mong thần chứng giám lễ vật và ngầm giúp đỡ dân làng yên lành, thịnh vượng.
Cuối cùng là chữ “cẩn cáo”. Nghĩa là cung kính xin phép (cho hết). Đọc xong là “phần chúc” (đốt bài văn tế).
Bởi thế mỗi kỳ tế tiệc lại phải viết bài văn mới cho hợp với thời gian, lễ vật, họ tên, chủ tế và các thành phần tế. Trong đó, phần chúc văn là cốt lõi, biền ngẫu và đối nhau.
Làng Can Bi có ngôi đình Thượng thờ vị thần là Bạch Hạc Cao Quan đại vương tên huý là Thổ Lệnh, vốn là vị thần sông hiển linh vào đời nhà Đường, niên hiệu Vĩnh Huy (651 – 655) ở sông Bạch Hạc. Thần học được phép tiên ở núi Tản Viên, thường đi chữa bệnh ở khắp các làng xã tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó có làng Can Bi.
Bài văn tế ngày sinh của thần ở đền Thượng (ngày 10 tháng 3) do tiến sỹ Ngô Văn Độ soạn:
“Nguyên thư: (đang cập nhật)
Cung duy đại vương:
Tự thiên hữu vận, bất ngẫu kỳ sinh. Tản Sơn tắc bí, Hạc chử hiển linh.
Phù lạc nguyên bệnh, huệ dân dĩ ninh, đức kỳ thịnh hĩ.
Nan tắc nhi chiêu, truy tư đả nhật, dụng hưởng trần sinh. Thượng kỳ lâm giám, trắc giáng tại đinh.
Tuy dĩ đa phúc, vĩnh bảo hoà bình”.
Diễn nghĩa:
Kính nhớ đại vương:
Đã có vận trời, chẳng phải ngẫu nhiên núi Tản tìm điều bí ẩn, bãi Hạc hiện rõ thiêng liêng.
Giúp cho điều vui, dẹp nguồn tật bệnh, lấy yên bình làm ân huệ cho dân, đức thật lớn vậy!
Khó gọi, khó mời, nhớ ngày sinh thần, xin dâng lễ vật, mong đựơc xét soi, bước xuống ở đình.
Lấy phúc làm yên, mãi mãi hoà bình.
Các ngày lễ có tế trong năm
Thông thường các di tích thờ cúng thần ở Vĩnh Phúc có các ngày lễ tế sau đây:
Lễ thần đản: Tế ngày sinh của thần.
Lễ thần kỵ: Tế ngày giỗ (ngày mất) của thần (với các vị là nhân thần).
Lễ ngày thần hiện.
Lễ ngày thần giáng
Lễ ngày hiển thần: Thần ứng trong mộng (với các vị là nhiên thần). Đây đều là các lễ chính. Ngoài ra, còn có các ngày lễ khác nữa.
Lễ khai sắc:
Thường tổ chức vào mùa xuân, nhất là tháng giêng, tổ chức hội hè đình đám. Nội dung là tuyên đọc đạo sắc văn mà vị thần đựơc nhà vua phong tặng. Đó thực sự là ngày kết tụ sự thăng hoa của niềm vẻ vang trong quá khứ, là niềm kiêu hãnh của hiện tại và kỳ vọng của tương lai.
Tuỳ từng làng và tuỳ mùa màng thu nhập từng năm mà có thể tổ chức thường năm, hoặc 3 năm, 5 năm một lần.
Làng Chu Đề, tổng Sơn Bình, huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc xã Đình Chu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), tổ chức ngày tiệc mùa hàng năm từ mùng 9 đến 11 tháng 10, có lệ khai sắc vào ngày 11. Nghi thức rước sắc như sau:
Ngày mùng 9 rước sắc từ miếu về đình, có lễ tế ở miếu (nơi thờ chính và lưu giữ hòm sắc). Trồng kiệu ở sân miếu (kiệu bát cống), bày đủ các đồ nghi trượng của cuộc rước như: Tàn, tán, màn đen che kiệu, lỗ bộ, cờ, trống, chiêng, phường nhạc.
Tế xong, vị thủ từ trao hòm sắc cho chủ tế bằng động tác rất cung kính, nâng hòm sắc lên khỏi đầu, chủ tế đón nhận trên khỏi đầu, trước thần điện rồi đi giật lùi từ nhà thượng điện đến nhà tiền tế. Thủ từ đóng cửa nhà thượng điện.
Chủ tế vẫn đội hòm sắc trên đầu, tiếp tục đi giật lùi qua cửa nhà tiền tế. Thủ từ tiếp tục đóng cửa nhà tiền tế. Khi ấy chủ tế bước quay lưng lại mà đi tiếp ra kiệu, đặt hòm sắc lên bành kiệu, rước kiệu về đình.
Cách chọn đạo sắc để rước và tuyên đọc:
Chọn lấy một đạo sắc của một vị hoàng đế hợp với vận trù theo ngũ hành (Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ) và can chi (thập can và thập nhị chi) năm vua lên ngôi để rước, bất cứ là đạo sắc nào và của vị hoàng đế nào. Chỉ rước và tuyên đọc duy nhất đạo sắc đó.
Lễ Khánh hạ:
Lễ khánh hạ là lễ tiệc ăn mừng của cộng đồng làng, nghĩa là thành công sau một việc nào đấy.
Lễ Kì an:
Nội dung là lễ cầu bình yên cho cộng đồng làng. Thường tổ chức vào cuối mùa xuân hoặc đầu mùa hạ, là mùa có nhiều dịch bệnh, mùa viêm nhiệt nên còn gọi là “lễ cầu mát”.
Lễ này cũng có thể tổ chức cúng ở chùa vào mùa hạ
Theo quan niệm xưa, dịch bệnh đều là do ma quỷ gây nên, nên tổ chức lễ cúng cầu yên cho dân làng, do lo sợ và bất lực trước tật bệnh mà cúng, vừa là “tống tiễn quan ôn” là mầm mống gây nên dịch bệnh.
Bởi vậy lễ cúng dùng nhiều vàng mă, thời gian cũng vào buổi đêm vì hồn ma thuộc thế giới âm. Có nơi cúng 3 đêm, lại có nơi cúng tới 7 đêm.
Lễ cúng lập thành 2 đàn:
– Đàn nội: Đàn cúng các vị thần, thành hoàng làng tôn thờ. Vì là cúng ở trong đình nên gọi là đàn nội.
– Đàn ngoại: Đàn lập ở ngoài trời chính là sân đình, cúng quan Đương niên và các thần “lục đinh”, “lục giáp”, “ngũ ôn”.
Chủ trì cuộc lễ là các pháp sư, thầy phù thuỷ, ở chùa là các nhà sư.
Khởi đầu cúng ở đàn nội, tế lễ. Xong đàn nội mới cúng đàn ngoại. Lễ cúng bắt đầu bằng pháp thuật “thu tinh cấm giáp” (bắt ma quỷ không đựơc vào làng), gọi là lễ “cát khiên” đều do thầy pháp làm. Nội dung là cắt dây oan nghiệt để giải cứu chúng sinh. Hoá vàng mã ở đàn ngoại.
Kỳ thứ ba làm lễ cúng thí thực ở đàn “mông sơn”. Lễ cúng có cơm nắm, cháo gạo (còn gọi là “cháo thí”), bỏng nếp, khoai lang luộc, kẹo bột, hoa quả.
Ngày nay, một số làng còn tổ chức lập đàn ngoại cúng chúng sinh cũng gọi là một lễ kỳ an nhân trong ngày tiệc làng. Trong tỉnh duy có làng Quan Tử xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch còn giữ lệ cúng kỳ an mô phỏng theo thể lệ ngày xưa. Lễ cúng được cử hành vào đêm 15 tháng 4 âm lịch hàng năm tại đình Bác Cổ . Đó là một lễ tế cúng ở hai đàn.
Đàn nội.
Làm lễ phát tán với các vị thành hoàng ở nội đình, ở đây là cúng tế hai nhân vật lịch sử được tôn thờ:
– Một vị là ông Đỗ Khắc Chung, thầy giáo của làng ở thế kỷ XIII, được tôn làm Thành hoàng.
– Một vị là ông Trần Nguyên Hãn, Tả Tướng quốc triều Lê Lợi là người làng này.
Lễ cúng tế là ước vọng cầu mong sự che chở giúp đỡ. Lễ cúng dùng cỗ thái lao: Trâu, dê, lợn. Do ban tri lễ của làng lo liệu mua sắm. Ngày nay không còn đình nên lễ tế đàn nội ở trong miếu thành hoàng Đỗ Khắc Chung
Đàn ngoại:
Lập ở sân đình Bác Cổ nay không còn đình nên lập đàn ở tam quan ngoại miếu.
Đàn ngoại có 3 bàn cúng:
Bàn cúng quan đương niên. Ngoài đồ lễ chín còn có 1 thớt voi, cỗ ngựa là để tiến đốn. Có một chiếc mũ cho quan sứ giả là vị thần làm phận sự trung gian dẫn đường. Cúng xong bàn đương niên, hoá mã lần thứ nhất.
Bàn cúng quan “lục đinh”, “lục giáp”, “ngũ tướng thần quan” cũng dùng lễ chín, còn có đồ vàng mã như: 5 chiếc mũ quan ôn là 5 vị coi sóc dịch bệnh của ngũ phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung thổ. Còn có 5 đôi ủng, 5 khẩu súng, 5 bao đạn. Cúng xong, hoá mã lần thứ hai để tiễn các quan ôn.
Còn có một chiếc thuyền bồng lớn. Trên thuyền có các hình nhân (người bằng giấy), có hai hình nhân đứng chèo ở đằng mũi, một hình nhân cầm lái và sáu hình nhân là các tay chèo.
Khi trong sân hoá mã lần hai thì đồng thời cũng tổ chức “thượng thuyền”, là lúc con thuyền được rước ra bến sông. Đám rước có cờ trống đi kèm. Xưa kia cảnh rước thuyền thật vội vã, hối hả, vì trên thuyền toàn các quan ôn, quân lính là những vị chuyên gây hoạ hoạn, sợ vì dọc đường bị quấy nhiễu. Vì vậy đoàn rước đi như chạy, trống thúc “ngũ liên”. Đoàn rước đi ngược lên bến Tuần thì thả thuyền trôi xuôi dòng sông Lô cho mát mẻ, cho ra khỏi địa phận.
Ngày nay lễ rước có từ tốn, thong thả hơn và tiếng trống cũng không còn thúc bách nữa. Mọi nỗi lo sợ đã bớt đi, không còn cảnh khi đoàn rước thuyền đi qua thì người trong nhà đóng chặt cửa lại, rồi tung nắm muối, nắm gạo theo mà tống tiễn.
ý nghĩa văn hoá dần thay vào sự cuồng tín mê hoặc xưa kia khi dân trí ngày nay đã mở mang và các tiến bộ về khoa học y tế đã phát triển vượt bậc.
Cuộc thượng thuyền kết thúc khoảng 10 giờ đêm. Gặp vào đêm trời trong, trăng sáng con thuyền lặng lẽ theo dòng sông Lô lấp lánh, cảnh sắc thật đẹp.
Trong khi thượng thuyền, trong sân tiếp tục phần cúng thí thực các chúng sinh. Cúng những cô hồn không nơi nương tựa, không ai cúng giỗ (dân gian gọi là ma đói). Cúng bằng cháo, lấy lá đa kẹp vào cái que, múc cháo vào đó cắm dọc theo ven đường cho các cô hồn lang thang gọi là “cháo thí”.
Lễ cúng kỳ an ở Quan Tử là một lễ lớn trong năm, được chuẩn bị rất chu đáo. Hương ước của làng lập năm 1935 có ghi thành điều khoản:
“Ngày 15 tháng 4 An Nam, tiệc Kỳ an, tế tại đình hội sở. Dùng lễ tam sinh trâu, dê, lợn, tế xong lễ tạ”…(1) Đồ mã voi, ngựa, thuyền…(2)
ở các dân tộc thiểu số trên địa bàn Vĩnh Phúc, quy tụ thành cộng đồng từng bản, không tổ chức các lễ kỳ an riêng.
Lễ Kỳ phúc:
Lễ cầu khẩn với thần linh ban cho được phúc lành. Nói chung, hầu hết các làng đều có lễ kì phúc được tổ chức trong năm thành định lệ, dù là thờ các vị nhân thần hay nhiên thần. Có làng trong năm có tới 3 ngày tiệc kì phúc như làng Bàn Giản, xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch vào các ngày mùng 7 tháng Giêng, mùng 7 tháng 5 và mùng 7 tháng 11.
Nội dung lễ Kì phúc ngày mùng 7 tháng Giêng tổ chức từ trưa ngày mùng 6 gồm:
– Lễ rước 4 kiệu của 4 thôn Đông Lai, Trụ Thạch, Ngọc Xuân, Hoa Giang và đình Cả tế công đồng, thờ một đêm (đêm mùng 6).
– Sáng mùng 7 có lễ rước cỗ (cỗ gà, bánh dầy) về đình Cả đại tế.
– Trưa mùng 7, tổ chức lễ hội cướp cầu (cướp phết)
– Chiều mùng 7, hạ tiệc, 4 kiệu hồi cung.
Làng Tây Thượng (xã Liên Hoà), làng Tây Hạ (xã Bàn Giản) cùng nguồn gốc Trang Tây khu đời Lê, cùng thờ chung một vị thành hoàng người thời Hùng Duệ Vương ở miếu công. Tiệc Kì phúc sáng mùng 3 tháng Giêng tổ chức rước kiệu từ đình mỗi làng về miếu tế công đồng. Rồi lại rước kiệu về đình làng mình tế lễ mở tiệc.
Tiệc này làng Tây Hạ còn có 2 nội dung rất đặc sắc:
– Sửa soạn cỗ bánh tế ở đình. Cỗ 100 thứ bánh làm trong 40 ngày.
– Mở hội cướp cầu (cướp phết).
Lễ minh niên: Lễ tế năm mới.
Lễ du xuân: Lễ tế rước kiệu Thánh thăm thú ngày xuân.
Lễ minh thê: Lễ tế thề nguyền của làng xã trước thần thánh ở miếu, đình, nên còn gọi là “hội minh”. Trong lễ tế, bài chúc văn là một bản thề nguyền toàn dân (nam phụ lão ấu) không làm việc gian phi, trái lệ làng, phép nước, giữ gìn an ninh xóm làng.
Nhiều làng ở Vĩnh Phúc tổ chức hội minh vào mùa Xuân và còn lưu giữ được bài văn tế.
Dưới đây là bài tế của làng Sen Hồ, xã Thái Hoà huyện Lập Thạch:
“Thệ việt:
Cư hương lân chi đạo, nhiên triều đình dĩ tước vi tôn. Huống bản xã dĩ hoà vi quý.
Đan thư thiết khoán, hoặc hà nhân âm mưu dị tâm, bất năng cố lực. Hoặc phát dẫn tha hương đạo kiếp, đại nhi đao thủ diệu lao thuỷ ngưu, thứ nhi kê tử, trư tử, hoặc đạo thú gia trung… vật. Hoặc đạo thú ngoại vật sinh hoa.
Dĩ thượng minh thệ chi từ, các thôn thần linh, giám giới.
Trung trực giả phù chi hộ chi gian na giả tru chi, diệt chi. Hữu gian nhân hạ đình hữu các, giám gian tiền tài thường…
Phục nguyện thần linh chi bất sảng dã”
Nguyên thư: (đang cập nhật)
Lễ tế thọ:
Lễ tế của hội thọ trong làng vào dịp đầu năm mới. Xưa kia nam giới tới 50 tuổi gọi là “sơ thọ”.
Tế thọ là lễ tế của người tới tuổi chẵn: 60 – 70 – 80 – 90 năm tuổi.
Lễ tế tiết chạp:
Tế vào tháng Chạp, ngày cuối năm. Ngoài ra cũng còn có các ngày tế lễ khác gồm: Lễ tế tiên thánh, tiên sư, tiên hiền:
Lễ này tổ chức vào ngày “Đinh” tính theo 12 con giáp (thập nhị chi), vào mùa xuân và mùa thu gọi là “Đinh tế”.
Tiên thánh là để chỉ các vị thánh nhân đời xưa, đối với hậu thánh. Nhà nho tôn xưng Khổng Tử là “Tiên Thánh”. Tiên sư là chữ học trò tôn xưng với thầy học đã quá cố. Tiên hiền là chữ dùng để suy tôn người đỗ đạt trong làng xã khi đã quá cố.
Tiên sư, tiên hiền được phục tế ở văn chỉ hàng tỉnh, hàng huyện, hàng tổng và hàng xã.
Lễ này thường tổ chức ở văn chỉ hàng xã do Hội Tư văn tổ chức. Các văn chỉ này hiện nay không còn nhưng các văn bia của các văn chỉ và các bài tế văn một số làng vẫn lưu giữ được. Tổng số có 18 văn chỉ làng xã có dựng bia.
Lễ tế đương niên:
Còn gọi là “quan đương niên” tức là tế vị thần quản giữ việc coi sóc của năm đó. Cũng gọi là “tế thánh sư” thường vào ngày mùng 8 tháng Giêng. Lễ tế này thịnh hành ở tất cả các làng xã của tỉnh Vĩnh Phúc.
Lễ tế nhương sao:
Thường gọi là “Nhương sao giải hạn” thường có ở các đền.
Lễ tế có dạng hình đặc biệt:
Lễ tế có hai vị chủ tế hoặc ba chủ tế:
Đó là các lễ tế chung của 2 hoặc 3 làng cùng thờ chung một vị thần thành hoàng, có chung một ngày lễ, một điểm hội lễ, một bài văn tế, một viên đọc chúc nhưng lại có nhiều chủ tế cùng phủ phục trước điện thần đại diện cho từng cộng đồng.
Lễ tế ở điểm giữa trời đất: (thần điện phi kiến trúc)
Thường là lễ tế ở các điểm “hành cung” của các vị thánh thần, tức là nơi nghỉ lại của các vị khi có hành rước. Như chân núi Lãng Sơn trong sự tích Thánh Tản Viên Sơn tam vị đại vương thờ ở làng Lũng Hoà, xã Yên Phương, huyện Yên Lạc và cũng có ở chân núi Kính Sơn trong sự tích Thánh Tản Viên Sơn tam vị đại vương thờ ở đền Cẩm Chiền, xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường trong ngày lễ khao yến các tướng sỹ vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm.
Tiếc rằng các lễ hội ở hai làng này đã thất truyền nên không rõ thể chế tế lễ ở hành cung như thế nào và các địa danh Lãng Sơn và Kính Sơn cũng chưa xác định được.
Trong các làng xã tỉnh Vĩnh Phúc còn có một lễ tế ở điểm giữa trời đất – loại hình thần điện phi kiến trúc – là điểm hợp tế của 2 làng Quế Trạo xã Đồng Quế và Lãng Sơn xã Lãng Công đều thuộc huyện Lập Thạch. Địa điểm hợp tế phi kiến trúc ấy nằm giáp ranh giữa hai xã Lãng Công – Đồng Quế (nay là trạm Lâm nghiệp huyện Lập Thạch) tổ chức vào ngày 27 tháng 8 hàng năm.
Nội dung lễ tế này là lập lễ đài có hai hàng:
Hàng trên đặt bài vị đức thánh Tản Viên.
Hàng dưới bên trái đặt bài vị thánh của thôn Quế Trạo là đệ nhất Cốt Sơn, đệ nhị Duật Sơn và đệ tam Húc Sơn là các tướng thời vua Duệ Vương triều Hùng có công trong cuộc chiến tranh Hùng – Thục dưới quyền của đức thánh Tản Viên. Bên phải đặt bài vị đức Thánh thờ ở xã Lãng Sơn.
Trong các ngày lễ đều có mở hội như: Tung còn, hội vật…
Làng Hoàng Vân xã Hoàng Đan có lễ tiệc ngày 12 tháng giêng hàng năm, gọi là “mở hội đình”.
Sáng ngày ấy, làng tổ chức rước 5 kiệu của 5 vị thành hoàng làng ra làm lễ tế ở gò đất gọi là “miếu Đông Nghè” bên bờ vực sông Đáy (nên còn gọi là Miếu Vực).
Tế đủ 3 tuần rượu rồi rước 5 kiệu hồi đình. Đó là lệ thường hàng năm.
Miếu Đông Nghè hiện nay cũng là thần điện phi kiến trúc lễ tế cử hành ở khoảng giữa trời đất.
Lễ tế cũng chỉ trải một chiếu của vị chủ tế trước điện thần. Một viên Đông xướng và một viên Tây xướng. Thần điện toạ ở phương Bắc hướng về Nam. Chủ tế đứng ở phương Nam chầu về Bắc. Những người dự lễ đứng hai bên. Nam giới đứng ở bên Đông. Nữ giới đứng ở bên Tây cùng hướng vào.
Cách bài trí tế tự như thế là biểu tượng “càn khôn”. Trời ở trên là dương. Đội hình tế lễ thành hình vuông, biểu tượng trái đất (trời tròn – đất vuông) thuộc âm.
Thần ở phương Bắc nhìn về Nam là vua, chủ tế hướng về Bắc là thần dân chầu về đức vua.
Bên Đông là dương, bên Tây thuộc âm, là “lưỡng nghi’ đó là tư duy về sự vận động sinh sôi trong vũ trụ và cũng chính do cách bày biện thần chủ hướng về Nam, nên các ngôi “thiên trụ” (cổng đình) của mỗi làng đều kén chọn đặt trên thế đất có hướng trông về Nam là hướng thuận biểu tượng của thiên tử. Trừ một số làng xã phụ thuộc vào ngoại cảnh, thậm chí có hướng quay về Bắc như khi thế đất gặp con sông hoặc đồi gò mà phải định hướng cho hợp, không còn được như ý muốn “ngoảnh về Nam”.
Dâng hương, tiến lễ, hiến rượu, đọc chúc cũng rất đơn giản nhưng cũng rất cung kính.
Tế ở gò ông Đống làng Lạc ý, phường Đồng Tâm, thị xã Vĩnh Yên. Gò ông Đống là điểm hội tụ “tam linh” của 3 vị thần thành hoàng làng Lạcý.
Vào ngày mùng 3 tháng giêng hàng năm, rước kiệu bài vị của vị thần từ đền Tam Linh ra lập đàn tế. Ba vị thần là: Đệ nhất Linh Sơn. Đệ nhị Linh Sơn và Đệ tam Linh Sơn.
Lạc ý là làng đồng bằng. Đây là dấu tích của tục thờ ông Đống từ thời nguyên thuỷ.
Hình ảnh các lễ tế ở chân núi Lãng Sơn (làng Lũng Hạ), núi Kính Sơn (làng Cẩm Chiền) đều là các thần điện phi kiến trúc, chắc rằng tế lễ ở làng Lạc ý cũng tương tự như thế.
Lễ tế ở đền Hai Bà Trưng làng Hạ Lôi:
Lễ tế có bài “chúc hỗ” một hình thái của ca trù (hát thờ), ca tụng công đức nhà vua, nghĩa là vừa có tế vừa có hát “xướng ca”.
Đền Hai Bà Trưng làng Hạ Lôi là di tích lịch sử văn hoá lớn của quốc gia. Ngôi đền là di sản văn hoá vật thể quan trọng, có lịch sử hào hùng, đồng thời còn có di sản văn hoá phi vật thể thật đặc biệt với các hình thái lễ rước và lễ tế ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm.
Về lễ tế:
Cũng sử dụng bài tế “thập bái” chung, nhưng ở đây lại có nét đặc biệt riêng.
Trong các tuần tế ngoài nhạc lễ của phường “bát âm” còn có lời ca “chúc hỗ” trong mỗi tuần (nguyên nghĩa chữ “chúc hỗ” là lời cầu chúc cho vua, mà nhân dân ở đây gọi là “tấu nhạc ca” (Lời hát lên theo tiếng nhạc).
Trong lễ tế, có các thiếu nữ đứng hai hàng bên Đông, bên Tây chủ tế cất tiếng ca trong mỗi tuần tế.
Có 5 đoạn” Chúc hỗ” ghi lại được trong lễ tế ngày mùng 6 tháng Giêng năm ất Dậu (năm 2005) dưới đây:
– Lời ca ở tuần “thượng hương” (dâng hương):
Tấu vua Bà, đội đức vua Bà.
Ra tay xây dựng nước nhà từ xưa
Nhớ công đâu đấy đền thờ
Lửa hương đền cũ bây giờ vẫn đây
Khói hương xa ngát hương bay
Lưng trời nghi ngút xe mây giáng trần
Kính dâng hương thắp một tuần
– Lời ca ở tuần đầu dâng rượu (tuần sơ hiến lễ):
Vua Bà dẹp giặc yên dân
Muôn vàn đội đức xa gần nhớ công.
Nơi thờ phụng miếu vũ sùng hồng
Tưởng tượng như bệ rồng thuở trước
Sơ hiến lễ thần tiền tiến tước.
“Tử tôn sở” kính trước dâng lên
Giám xin thấu đến bề trên.
– Lời ca ở tuần dâng rượu thứ hai (tuần á hiến lễ):
Chén khuê toản rượu hoàng lưu
Nhớ khi ẩm chí trần châu khải hoàn
Trên bệ rồng gang tấc thiên nhan
Chén thọ nguyện Nam San nguyện thượng
Nay thần tiến tước, hiến tước.
“Tửu tôn sở” tái trước tái châm
Giám xin chứng giám thành tâm.
– Lời ca dâng rượu ở lần cuối (tuần chung hiến lễ):
Lễ nghi có tiết có văn
Xong tuần hiến á đến tuần hiến chung
Chung hiến lễ nghệ trước sân rồng
Rồi phục vị cúc cung tạ lễ
Trên đền thờ tôn nghiêm đế chế
Dưới áo xiêm đường bệ uy nghi
Chữ rằng thần chi, kính chi.
– Lời ca khẩn cầu hai vị Hoàng đế họ Trưng:
Cảnh xuân tưng bừng chiều xuân êm dịu
Nhớ khi dựng lại sơn hà
Hoa đưa mũi kiếm liễu rờn bóng tinh
Dẹp giặc Tô trong nước thanh bình
Lòng kỷ niệm miếu đình hiến hưởng
Tưởng tượng như tại thượng cư âm
Cầu cho phúc lộc lai lâm
Dồi dào mưa móc thấm nhuần cỏ hoa
Phù hộ cho cả làng ta
Phù hộ cho cả nước nhà quang vinh
Chữ rằng: Phú – Quý – Thọ – Khang – Ninh
Lời ca da diết, trầm lắng mà trang nghiêm vừa xa vừa gần như khói hương trên điện thần nối thời gian vào lịch sử.
Tế đêm ở đền Nội thôn Tráng Việt (xã Tráng Việt, huyện Mê Linh):
Từ xưa đã có câu ca về lễ tiệc:
Đông Cao có lệ bó mo
Tráng Việt có tục tế mò ăn đêm.
Đông Cao nay thuộc xã Tráng Việt huyện Mê Linh có ngôi đền thôn Đoài thờ bà Hồ Đề được phong tặng là “Quốc vương Thiên Lưu ả Lự Nương Đề, là tướng của Hai Bà Trưng, mở tiệc lớn vào ngày mùng 4 tháng Giêng. Lễ vật dâng cúng có bánh dầy. Khi giã đầu chày bịt mo cau cho khỏi dính gọi là “bó mo”.
Làng Tráng Việt thờ bà ả Lự Nương, hiệu là Đương Cảnh thành hoàng Quốc vương Thiên Lưu ả Lự Minh Vương. Chính tiệc vào ngày mùng 8 tháng 2 nhưng lại tế lễ về ban đêm, tắt đèn đuốc (tế mò). Sau tế dân làng thụ lộc trong bóng đêm (ăn đêm).
Sự tích kể rằng bà Lự Nương là tướng của Hai Bà Trưng. Trong chiến trận mải mê đánh giặc cả ngày. Đến đêm tối mới tạm ngừng giao chiến. Khi ấy quân sỹ mới được nghỉ ngơi ăn uống. Lễ tế đêm là tái hiện sự tích ấy.
Khi tế, tắt hết đèn đuốc, hành lễ tế phải đi dò dẫm. Còn khi tế xong dân làng thụ lộc cũng không có đèn đuốc nên gọi là “đi mò – ăn đêm”.
L.K.T- (Lễ hội Vĩnh Phúc)
Các địa chỉ khác: http://vanchuongviet.org – http://vannghesongcuulong.org
@2004 – 2015 Thực hiện: Nguyễn Hòa vcv
HOÀNG TrẦN Hoà sưu tầm
Viết bình luận
Tin liên quan
-
HỘI THẢO KHOA HỌC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
-
CHÚC MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11
-
THƯ CHÚC MỪNG NGÀY QUỐC TẾ CÁC NHÀ GIÁO
-
Vì sao gần một nửa người Việt cùng mang họ Nguyễn
-
HỘI THỀ KHÔNG THAM NHŨNG TẠI HẢI PHÒNG – XUÂN KỶ HỢI 2019
-
Người Jing (Việt) Trên Đất Trung Hoa
-
HAI BÀI THƠ MẠC ĐƯỜNG CẢM TÁC
-
LỜI RĂN CỦA TĂNG QUỐC PHIÊN, TỨ ĐẠI DANH THẦN NHÀ THANH TQ
-
THÔNG BÁO HỘI NGHỊ THƯỜNG TRỰC MỞ RỘNG HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM
-
Bà Thái Hương – Chủ tịch HĐQT tập đoàn TH: “Chúng ta hãy trân quý Bà mẹ thiên nhiên, Người sẽ cho mình tất thảy”
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Họ Mạc, Nhà Mạc trong lịch sử
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC