- Đang online: 4
- Hôm qua: 672
- Tuần nay: 13398
- Tổng truy cập: 3,368,353
BÀI THƠ TẾ ĐỨC THÁI TỔ NHÂN MINH CAO HOÀNG ĐẾ MẠC ĐĂNG DUNG
- 413 lượt xem
BÀI THƠ
TẾ ĐỨC THÁI TỔ NHÂN MINH CAO HOÀNG ĐẾ MẠC ĐĂNG DUNG
` Đàm Vân Phúc[1]
Lũ chúng con trở về tế Tổ,
Đấng anh hùng sáng tỏ trời Nam.
Vung đao trừ diệt gian tham,
Vỗ yên thiên hạ, việc làm nghĩa nhân.
Thời đại loạn, lắm phần cát cứ,
Nhiều phái phe, bao xứ vung đao.
Lửa binh xương trắng, máu đào,
Trị vì thiên hạ mà nào được yên.
Nhận chiếu chỉ được nhường ngôi báu,
Với triều Lê chu đáo lễ nghi.
Trăm họ vui sướng kéo về,
Nhân tài thu nạp, chẳng hề đơn sai.
Buổi tráng niên dân chài vũ dũng.
Gốc trâm anh, ai cũng tỏ tường.
Đua tranh từ thưở Hán Đường,
Danh gia vọng tộc, Nam phương anh hào.
Kể từ thưở trời cao mở lối,
Thời nhà Chu, gốc cội tộc Cơ,
Từ thời trái đất hoang sơ,
Đất phong Cự Lộc, dựng cờ Mạc gia.
Năm Đại Trung, khai khoa rực rỡ,
Cụ Trạng nguyên Mạc Tổ Lĩnh Nam
Lộc trời! đâu có dám tham,
Chí Linh đất ấy, ngọt cam một thời.
Bảng vàng Tiến sĩ giữa trời,
Đồng triều Huynh đệ tuyệt vời trâm anh.
Lẽ huyền diệu – gien lành trời dưỡng,
Đến triều Trần sinh trưởng Đĩnh Chi,
Một bậc tài đức ai bì,
Trạng nguyên lưỡng quốc sử ghi sáng ngời.
Hoa thơm ấy, đời đời ghi nhớ,
Đức tài kia, một thưở rạng danh.
Đức dày thấu đến trời xanh,
Nghìn thu con cháu tốt lành hoa thơm.
Cuộc trần thế, trời đơm bĩ – thái,
Đại Nam ta, đụng phải Minh triều,
Cháu con nông cạn, bước liều,
Cho nên gia tộc, tiêu điều xót xa…
Miền đất hứa, Thanh Hà kéo đến,
“Đò sáu tiền” trên bến lập công.
Tích đức chờ đón trời hồng,
Nguồn phúc lại tụ, dòng sông vả bờ.
Dòng họ Mạc thiên cơ trợ sức ,
Đĩnh Phú sinh được đức Đăng Dung.
Tiềm long xuất thế anh hùng,
Vung đao trừ loạn vẫy vùng trời mây.
Truyền thuyết kể: nhờ thầy ân đức,
Đón về nuôi, túc trực trong nhà.
Biết Ngài dòng dõi thế gia,
Mai sau rồi sẽ xông pha cứu đời.
Lẽ huyền diệu, cơ trời định trước,
Sinh anh tài, lại được huyệt sang,
Giữa vùng trời đất mênh mang,
Một ngôi mộ tổ hiên ngang tuyệt vời,
Đất Cổ Trai một trời rực rỡ,
Tuổi thiếu niên bỡ ngỡ dân chài,
Hội thi võ nghệ đua tài,
Sức vóc trời tặng, chẳng ai dám bì.
Thời đại loạn, quân đi rợp đất,
Vận Lê suy, thuyền chật sông sâu.
Cơ trời, vận nước nhiệm mầu,
Ngài như sao sáng đứng đầu việc binh.
Thời vận xấu, triều đình đổ nát,
Thanh Đại đao chinh phạt Tây – Đông.
Uy danh trời lở, đất long,
Nhường ngôi chiếu chỉ, bệ rồng chuyển giao.
Vận Lê hết, trời trao ngôi báu,
Gánh giang sơn nung náu cõi lòng.
Dương Kinh sáng rực ánh hồng,
Đám mây ngũ sắc, trời đông sáng ngời.
Lấy khoa cử đón vời anh kiệt,
Thu nhân tâm, trừ diệt tham tàn.
Sông ân nước chảy đã tràn,
Mà sao bể khổ muôn vàn âu lo.
Cho ngôi báu, không cho thiên hạ,
Mười bảy thập niên vất vả đao binh.
Trời nam nào được yên bình,
Gần hai thế kỷ chiến chinh bạo tàn.
Dòng họ Mạc tan đàn sẻ nghé,
Đất Cổ Trai trúc trẻ tro bay,
Dương Kinh khói ngút trời mây,
Cháu con cao chạy, xa bay mọi vùng.
Oan trái lắm, trời dung, không diệt,
Khổ đau nhiều, xưa thiệt nay hơn.
Gươm đao binh lửa nguồn cơn,
Xin đừng đổ oán, đổ hờn cho ai.
Xét Tiên Tổ canh dài thao thức,
Mấy trăm năm ấm ức đau thương.
Xin về hội chốn Kinh Dương,
Trần gian tưởng niệm, khói hương ngạt ngào.
Dân công nhận, trời cao chứng giám,
Mạc tộc ta, xưa thảm, nay vui.
Biết bao chua xót ngậm ngùi,
Chẳng ai còn dám dập vùi như xưa.
Ai oan trái cơn mưa binh lửa,
Ai khổ đau, tan cửa nát nhà.
Hồn oan trong buổi can qua,
Cầu Đức Quán Thế Phật Bà giải oan.
Là dân Việt, kết đoàn làm trọng,
Dưới trời Nam, chung sống chan hòa,
Xin đừng chia bảy, tách ba,
Bài học lịch sử quả là đắng cay.
Tổ đã đến đất này dựng nghiệp,
Đất Lĩnh Nam trùng điệp núi sông,
Hồng Hà cùng với Cửu Long,,
Mạch trời tuôn chảy Biển Đông sóng trào.
Ôi! Đau xót ba đào chinh chiến,
Cảnh trong – ngoài tái diễn xót đau.
Hiền Lương chỉ mấy nhịp cầu,
Trong cơn binh lửa, sông sâu xác người.
Xin Tiên Tổ hãy cười lệ chảy,
Để cháu con bái lạy cúi đầu.
Trời cao biển rộng sông sâu,
Thụ ơn Phật Tổ nhiệm mầu anh linh.
Sẽ xây lại Dương Kinh rực rỡ,
Sửa Lam kinh muôn thưở thiêng liêng,
Thành Hồ đá đổ, đất nghiêng,
Tây Sơn cờ dựng, trống chiêng rợp trời.
Con cháu lấy việc đời làm trọng,
Xin Tổ Tiên hãy rộng lòng thương,
Sao cho đất Việt hùng cường,
Trong thời hội nhập, bốn phương vui vầy.
Chuyển thiên kỷ, trời lay, đất lở,
Cõi trần gian sóng gió mịt mùng,
Xin thờ một Tổ Vua Hùng,
Một con tàu Việt, vẫy vùng bốn phương,
Chốn linh địa, khói hương nghi ngút,
Hồn Tổ Tiên cao vút trời mây,
Xin về hội tụ tại đây,
Cháu con Mạc Tộc chốn này ghi sâu.
Lòng con cháu nguyện cầu chân thật,
Dám cúi xin trời Phật chứng minh,
Việt Nam khang thái thanh bình,
Non sông tươi đẹp, nghĩa tình bền sâu.
Hà Nội, ngày 20/09/2004
Cung Thảo
[1] Cử nhân vật lý Viên Hồng Đàm Vân Phúc, cháu ngoại của họ Thái – Mạc ở thôn Phúc Xá, xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.