- Đang online: 1
- Hôm qua: 416
- Tuần nay: 20056
- Tổng truy cập: 3,372,179
Thơ: GIẢI OAN HỌ MẠC và THẦN TỔ MẠC ĐĂNG LƯỢNG
- 386 lượt xem
GIẢI OAN HỌ MẠC
Hoàng Văn Tiến
Năm trăm năm họ Mạc ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Thay hình đổi họ đi đâu
Cái oan thị Kính đã lâu lắm rồi…
Thăng Long – Cao Bằng chẳng ngơi,
Họ Mạc ta đã mười đời làm vua
Cả nước hoà bình được mùa
Đêm không đóng cổng hội hè khắp nơi
Ngoài đường không nhặt của rơi
Đó là tốt đẹp của thời Mạc ta
Rất nhiều khoa thi mở ra
Chọn người tài đức đó là đầu tiên
Điển hình Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Thi Đình, thi Hội khắp miền nở hoa…
Thế mà sử cũ điêu toa
Rêu ra họ Mạc chúng ta nguỵ triều
Sử ghi sai lệch nhiều điều
Cắt đất dâng nạp vương triều sai ngoa
Đất ấy là của người ta
Họ đòi ta trả, giải hoà đó thôi
Tránh được máu chảy đầu rơi
Đó là khôn khéo của thời Mạc ta
Chính sách đổi mới đề ra
Sử cũ chép lại thật là công minh
Cái oan thị Kính họ mình
Làm vua có chiếu rõ ràng nhường ngôi
Cổ Trai xưa có một người
Vai trần chân đất thành người hoàng đế anh minh
Cổ Trai giờ có thái miếu Dương Kinh
Vương triều nhà Mạc rành rành nguy nga
Năm trăm chi họ Mạc ta
Đoàn viên xum họp trẻ già mừng vui
Cái oan thị Kính giải rồi
Con cháu họ Mạc muôn đời quanh vinh
Hoàng Văn Tiến,
(82 tuổi, chi họ Hoàng gốc Mạc, thôn Trâm Khê, xã
Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng).
THẦN TỔ MẠC ĐĂNG LƯỢNG (DIỄN CA)
(1496-1604)
(Đổi Lê Đăng Hiền (1592-1599)
Đổi Hoàng Đăng Quang (1599-1604)
Bài của Hoàng Mạnh Trang
Chi Hoàng Sỹ, Yên Sơn
Hải Dương Cổ Trai tên làng(1)
Quê hương thủy tổ Lê Hoàng họ ta
Tiến sĩ Mạc Đăng Trắc khai hoa
Nối dòng trạng Mạc trải qua năm đời
Mạc Đăng Lượng con trưởng tuyệt vời
Hai bằng tiến sĩ tuổi đời hai lăm
Võ hàm đại tướng vua phong
Rồng tang hổ phục quận công triều đình
Kết duyên công chúa đẹp xinh
Anh hung họ Mạc nối tình Lê vương
Sinh ba mạnh tử tráng cường
Đăng Lượng, Đăng Tưởng tam tường Đăng Thân
Lớn khôn múa giáo đoạt lân
Võ văn nghiệp tổ nghĩa nhân đức nhà
Sáu năm Lượng giúp Lê gia
Lê phong Quý quốc công ra vỗ về
Vận trời vận nước đổi bề
Mạc lên Lê xuống Người về gia cư
Ba năm vua Dung gánh vác sơn hà
Bồn chồn thương cháu muốn ra giúp Người
Một năm ba một đến rồi (1531)
Vua Doanh chỉ dụ mời Người về Kinh
Sắc phong vua phó triều đình
Võ hàm đại tướng tinh binh vạn ngươig
Trung trinh tình nghĩa sang ngời
Đại vương minh nghĩa vua thời ban phong
Doanh rằng giặc giã miền trong
Hoan Châu trấn thủ sắc phong cho Người
Dương cờ thủy bộ rợp trời
Buồm căng ngựa ruổi tới rồi Hoan Châu
Đánh một trận ma sầu quỷ khóc
Đánh trận nữa tan tác chim muông
Đánh cho giặc Nguyễn(2) cùng đường
Tàn quân mấy đứa chạy luôn sang Lào
Nhân dân nô nức đón chào
An cư lạc nghiệp đổi trao học hành
Đô Đặng đóng đại bản doanh
Sông Lam phòng thủ đông thành tiền tiêu
Dân giàu quân mạnh lương nhiều
Mở mang cày cấy tính điều phòng xa
Nam Đàn, Đô Đặng mở ra
Chiêu dân lập ấp bao la gieo trồng
Nội riêng đơn lẻ khuê phòng
Nhớ nhà nhớ chúa mà không tiện về
Chúng dân mai mối tỉ tê
Mai gia vương tộc liệu bề thông gia
Mai thị Huệ đẹp như hoa
Công dung ngôn hạnh lại là nhất quê
Từ ngày kết duyên phu thê
Sinh năm quý tử Mạc kia nối dòng
Lớn khôn toại nguyện ước mong
Võ văn đoạt giải thỏa lòng non song
Đăng Lưu phật pháp thiền thông
Đăng Đạo đô sứ tướng trong triều đình
Đăng Kỳ hoài viễn tướng quân
Đăng Ngọc, Đăng Thuật cử nhân giảng đường
Mười bốn năm trấn thủ một phương
Phó vương xây dựng hung cường Hoan Châu
Thanh Hóa nổi loạn gieo sầu
Phù Lê Chống Mạc cầm đầu Nguyễn Kim
Vua Phúc Hải tuổi nhỏ niềm tin
Điều Mạc Đăng Lượng hồi kinh mưu thần (1544)
Vua Phúc Nguyên mưu lược xa gần
Tướng Lượng, Tướng Liện bao lần xuất binh
1575 Hoan Châu thình lình giặc chiếm
Quân đồn phòng giặc đến lánh đi
Chờ quân tiếp viện một khi
Tướng Lượng, Tướng quyện được thì rat ay
Sấm vang chớp giật thu chầy
Tan đồi rụi cỏ xá thây mấy đồng
Lèn Hai Vai tướng Phan Công Tích vào tròng
Ngồi voi mổ bụng than rằng bởi ngu
Công Thành đất tử tướng Thái Bá Du
Hoàng Mai cụi mở đón tù Nguyễn Cảnh Ngô đi
Mười năm binh lửa một thì
Bảy mươi chin tuổi ngựa phi chiến trường
Tam quốc Hoàng Trung nêu gương
Bảy chín đánh giặc dễ thường có ai.
Vận trời vận nước đổi thay
Mạc chưa bền gốc đã lay cội cành
Sáu mươi năm liên tiếp chiến tranh
Sức dân mỏi mệt kẻ ranh đổi lòng
Vua Mậu Hợp thủ Thăng Long
Trịnh Tùng vào chiếm san bằng Đô kinh (1592)
Tru di, truy diệt, cực hình
Người còn đổi họ ẩn mình thay tên
Mạc Đăng Lượng đổi Lê Đăng Hiến
Cùng con họ vợ về bên Thạch Thành
Nỗi niềm than với trời xanh
Hai hòe một quế tám cành chưa chung
Nỗi riêng quận chúa chia cùng
Chàng sao nỡ để lạnh lùng Hoan Châu
Giờ vào tính kế dài lâu
Hoàng Đăng Quang tên đổi buổi đầu cho sang
Năm con cùng đổi họ Hoàng
Ở ra năm xứ dự giang giống nòi
Dẫu cho vật đổi sao dời
Me con Lê thiếp sớm dời chân vô
Vì ai chưa suốt đường tơ
Vì ai cho đến bây giờ mới thân
Mạc Đăng Lượng bậc danh nhân
Văn khoa tiến sĩ võ vần Nguyên Nhung
Ngôi cao vua phó triều trung
Công thần khai quốc một vùng Hoan Châu
Chiêu dân lập ấp công đầu
Về già quy thánh dân tâu lập đền
Đô Lương lập miếu Đô tiên
Tán Sơn xin tỏ nguồn cơn
Thiêng liêng đã được tiếng thơm tiếng lành
Quang Trung tiến lễ cầu danh
Giúp vua đại phá giặc Thanh quân Tàu
Tết Kỷ Dậu kế đánh mau(3) (1789)
Thăng Long 29 vạn quân Tàu tan hoang
Trở về lễ tạ thành hoàng
Phong thần ba bậc thượng khanh đẳng thần
Đô Tiên miếu của tình dân
Giặc thù đã phá nay cần tạo tôn
Sắc phong Đô Đặng làm luôn
Nam Đàn di ái(4) cội nguồn tình sâu
Miếu xưa trúc Duẩn(5) bắt đầu
Xóm trên làng dưới trọn câu vui mừng
Cháu con hương khói tưng bừng
Lê Văn(6) đền tán Hoàng Trần Đô Tiên
Bốn trăm năm đứng giữa niềm tin
Phù dân độ thế hộ miền tâm linh
Lại qua đền đáp ân tình
Bốn mùa hương khói uy linh bốn mùa
Dẫu chưa nối đặng tình xưa
Hai đền hành xử như vừa một thôi
Cháu con truyền thống hai nơi
Yêu dân yêu nước chẳng vời vinh tư
Hai đền một chí căm thù
Đánh Tây đuổi Mỹ công đầu còn ghi
Hội người yêu nước ra đi
Đón người cộng sản mỗi khi họp cần
Công văn tài liệu gửi thần
Giữ gìn bảo hộ giặc nào lần ra
30-31 trụ sở Đảng ta
Chỉ huy tranh đấu xông pha kiên cường
Giãn mình kháng chiến kỳ trường
Trụ sở phường xã dân thường vào ra
Tích xưa tích mới quyện hòa
Chứng nhân lịch sử quê ta có đền
Nước nhà độc lập bình yên
Tấm than Tổ quốc mọi miền còn đau
Chiến tranh đền miếu tránh đâu
Ngói tan tường vỡ mang màu phế hoang
Bao năm nỡ để trễ tràng
Say sưa đổi mới suýt tan quốc hồn
Nhân dân náo nức tìm nguồn
Bốn ngàn năm văn hiến ai toan đổi màu
Giật mình đổi mới về đâu
Nếu không văn hóa gốc đầu việt đi
Đảng ra Nghị quyết kịp thì
Bảo tồn văn hóa phát huy ngang tầm
Bản sắc dân tộc trung tâm
Đền là đạo lý nhân văn nước nhà
Đền Đô, đền Tán của ta
Xứng tầm lịch sử Quốc gia cấp bằng
Nhân dân mừng rước thành hoàng
Đền xưa khôi phục khang trang đón thần
Đền Đô tiếp thờ Thị Huệ phu nhân
Bậc thần hai thượng đẳng thần cao ngôi
Đăng Tuấn phó tướng em Người
Bậc thần một thượng cùng thời truy phong
Tiếp thờ hậu thế có công
Bậc thần hai thượng cùng trong đền này
Đăng Lưu, Đăng Đạo, Đăng Kỳ
Sáu thần họ Mạc trợ uy xóm làng./.
Tháng 10/2005
Tài liệu tham khảo
1. Bản tộc phả dịch ra quốc ngữ của ông Hoàng Sỹ Nhã dịch từ cuốn Tộc phả chi họ Hoàng văn (Nam Đàn) viết năm 1789 và bản viết năm 1697, nhất là bài văn tế tổ trong đó
2. Tham khảo hai tờ trình duyệt Di tích lịch sử văn hóa nhà thờ họ Hoàng Trần và đền Tán Sơn (1999)
3. Tham khảo sách Hoan Châu Ký
(1) Quê hương Thủy tổ là làng Cổ Trai, huyện Bằng Hà, tỉnh Hải Dương
(2) Theo Hoan Châu Ký: Nguyễn ở đây chỉ cha con Nguyễn Cành Hoan sau còn mầy người chạy sang Lào nhập vào hội phù Lê diệt Mạc (1533)
(3) Năm 1789 vua Quang Trung kéo đại binh ra Bắc để đánh 29 vạn quân Thanh xâm lược đã tiến lễ tại đền Tán Sơn cầu phủ hộ. Sau khi đại thắng trở về đã truy phong cho ngài Tự Cát giang tử “ Đẳng tiên Đô miếu, bao phong phù cách hồng du, gia phong anh dũng Thành hoàng Thượng Thượng Thượng đẳng thần” ý nghĩa: “Ta thay triều vua trước cho làm đền Tiên Đô trên song Lam để thờ ngài”
(4) “ Nam Đường di ái ức niêm từ” ý: Tình cảm này từ Nam Đàn chuyển lên để thờ,
(5) Bởi quan hệ đền Tán Sơn mà đền Tiên Đô được dựng lại vì vậy mới có đôi câu đối “ Trúc Duẩn tái sinh thiên cổ miếu” ý: Anh hùng trở lại miếu xưa.
(6) Lúc ở Thạch Thành Thanh Hóa đổi là Lê Dăng sau vào Nghệ An đổi là Lê Văn
Viết bình luận
Tin liên quan
- Thơ dự thi: “Hướng về nguồn cội”
- Thơ dự thi “Hướng về nguồn cội” (17/12/2013)
- Thơ dự thi “Hướng về Nguồn cội”
- Chùm thơ dự thi “Hướng về nguồn cội”
- Thơ dự thi “Hướng về nguồn cội”
- Chùm thơ dự thi Hướng về nguồn cội” (10/12/2013)
- Thơ dự thi “Hướng về nguồn cội” (09/12/2013)
- THƠ DỰ THI “HƯỚNG VỀ NGUỒN CỘI” (06/12/2013)
- Chùm Thơ dự Thi “Hướng về nguồn cội”
- Chùm thơ dự thi “Hướng về nguồn cội”(03/12/2013)
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.