- Đang online: 1
- Hôm qua: 1220
- Tuần nay: 22145
- Tổng truy cập: 3,371,526
Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung
- 881 lượt xem
Phần 14
Đêm tháng Giêng, có một người cưỡi ngựa vào Lôi Dương xứ Thanh, đến đầu huyện thì bị quân bản địa giữ lại xét hỏi. Người ấy cũng chỉ mong vậy để dễ dàng gặp được Trịnh Tuy.
Người ấy xưng tên là Nguyễn Sĩ, từ Đông Kinh vào. Sĩ nói:
– Vua Thánh Tông có 14 hoàng tử, Kinh vương Lê Kiện là con út. Mẹ các hoàng huynh, từ hoàng tử trưởng đến người thứ sáu nếu không là Hoàng hậu hay thứ phi thì cũng là Sung viên, cùng lắm là Tài nhân, nhưng từ người thứ bảy trở đi mẹ chỉ là nàng hầu. Chính vì vậy, Kinh vương bị những người anh có các bà mẹ danh gía coi thường. Điều oái oăm là cả Kinh vương lẫn mẹ đẻ của vương lại được nhà vua hết sức yêu chiều. Điều đó cũng không có gì khó hiểu vì mẹ của Kinh vương trẻ nhất trong số các phi tần cung nữ được gần vua, nghe nói bà kém nhà vua tới gần 40 tuổi. Khi vua Thánh Tông còn sống Hoàng hậu và các bà phi chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, nhưng vua mất đi, họ hùa vào làm tình làm tội mẹ con Kinh vương và còn nói rằng chính vì bà mà nhà vua sớm suy kiệt thể lực. Hiến Tông lên ngôi rồi tiếp đấy là Uy Mục. Uy Mục đế nghi ngờ hết thảy tôn thất vì chỉ sợ họ cướp ngôi, do đó luôn luôn nghĩ đến chuyện làm hại họ. Kinh vương tuy là bậc chú vua cũng không tránh khỏi tai vạ đó nên quyết rời bỏ kinh thành, mai danh ẩn tích tìm thú nhàn tản ở nơi thôn dã. Khi Tương Dực chiếm ngôi của Uy Mục, có người khuyên Kinh vương trở lại kinh thành, vương bảo: “Oánh là bày tôi mà lại giết vua, là em mà lại giết anh, người ấy cũng không khác gì Uy Mục đâu”. Về sau quả như vậy. Kinh vương sống yên phận đến mức thiên hạ nhiều người không biết kết cục ra sao, thậm chí có người còn bảo vương đã bị vua Hiến Tông giết chỉ vì vương được vua Thánh Tông yêu! Nhưng người vợ của Kinh vương thì không chịu yên phận. Phu nhân luôn ấm ức vì tiếng là vương phi mà sống không khác gì kẻ cùng đinh, vì vậy bà quyết bế con trai là Lê Do về kinh thành để gặp vua Tương Dực, xin được che chở. Đúng lúc đó xảy ra chuyện các đại thần trừ diệt Tương Dực. Phu nhân vẫn quyết không về với Kinh vương, sau vì đau buồn nên phu nhân ốm mất, trước khi mất có đưa cho con trai chiếc quạt này vào bảo: “Đây là chiếc quạt có bài thơ của vua Lê Thánh Tông do chính tay nhà vua viết và tặng bà nội của con. Bà trao cho mẹ, bảo mẹ truyền lại cho con, đó là bảo vật, khi cần thì dùng, ắt sẽ được việc.”. Ai cũng biết triều đình có đại ấn và tiểu ấn, riêng Thánh Tông còn có thi ấn dùng để đóng vào các bài thơ của mình. Xin mời ngài xem.
Trịnh Tuy cầm lấy chiếc quạt xem qua rồi đưa cho Trịnh Duy Liệu. Liệu giỏi văn chương, ham thơ phú và đã được đọc một số bài thơ của vua Thánh Tông từ chính tay nhà vua viết nên xác nhận bài thơ trong chiếc quạt, từ nét chữ đến nét ấn đều đúng là của Thánh Tông.
Nguyễn Sĩ nói tiếp:
– Biết tướng quân có ý không phục đương kim Hoàng thượng nên tôi đến đây xin giúp.
– Ta hiểu ý ngươi. Có phải ngươi muốn ta dựng con của Kinh vương… Ngươi nói ông ta tên là gì nhỉ?
– Thưa tướng quân, tên là Lê Do, năm nay 11 tuổi. Hiện đang chờ ở chòi cá bên sông.
Duy Liệu lộ rõ vẻ thất vọng, trong khi đó Trịnh Tuy cười ha hả:
– Hay lắm! Càng dễ cho ta!
Trước đây Trịnh Tuy có cho người ra Bắc liên hệ với Nguyễn Kính, cùng lập Lê Bảng là con Tĩnh Tu công Lê Lộc, xưng niên hiệu là Thiên Đức để chuẩn bị làm việc thoán nghịch. Trịnh Tuy về Thanh Hoa mang Lê Bảng theo. Lê Bảng tuổi cũng khoảng như Lê Do nhưng địa vị trong hoàng tộc không cao lại đau ốm luôn nên nay được Lê Do, Trịnh Tuy ưng ý lắm.
Nguyễn Sĩ dẫn Trịnh Tuy và Trịnh Duy Sản ra chòi cá để gặp Lê Do. Bấy giờ Lê Do đang xem người ta đánh cá, vì nghịch, mở giỏ cá ra xem được bao nhiêu con nên Do làm mấy con nhảy xuống sông mất, sợ quá, bỏ chạy và bị tay ngư phủ vớ hòn đất ném theo trúng lưng. Thấy vậy Nguyễn Sĩ rút gươm định giết người đánh cá thì Trịnh Tuy ngăn lại, bảo:
– Đấy là điềm tốt. Thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Bắc quốc, công tử Trùng Nhĩ phải cùng một số bày tôi lưu vong. Đến Ngũ Lộc thì đói quá nên họ phải xin ăn. Người ở đấy chẳng những không cho mà còn đùa cợt, đưa cho nắm đất bùn. Trùng Nhĩ và bày tôi có kẻ thấy thế định giết người đó, Hồ Yển bảo: “Bùn cũng tức là đất, dân cho chúng ta đất là một điềm tốt”. Về sau quả nhiên Trùng Nhĩ làm vua nước Tấn. Chúng ta cũng vậy đang mong được đất nay lại có người cho đất!
Trịnh Tuy bảo Lê Do lậy tạ người đánh cá và ban thưởng cho y một quan tiền khiến y ngớ ra không hiểu gì cả. Trịnh Tuy truất bỏ Lê Bảng ngay hôm đó, lại cho người đánh cá năm quan tiền nữa để sai đem Bảng ra giữa sông dìm chết cho khỏi phiền phức về sau, đồng thời lập Lê Do làm vua, đặt niên hiệu mới là Thiên Hiên. Lê Do tôn Trịnh Tuy làm phụ hoàng. Bàn việc tiến quân ra Bắc, Trịnh Tuy nói:
– Thanh Hoa tuy có Tây Kinh, lại là nơi dựng nghiệp tân vương nhưng không thể lấy làm kinh đô lâu dài cho cả nước được vì từ lâu thiên hạ đã quen hướng về Đông Kinh. Vậy nên hành điện mai sau sẽ tạm đặt ở Miêu Nha, huyện Từ Liêm, hiện do quân Tây Sơn nắm giữ. Vì Miêu Nha nghe dễ lẫn với Gia Miêu quê quán của đám Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim nên nay đổi thành Do Nha.
Nguyễn Sĩ hỏi bao giờ sẽ tiến quân. Trịnh Tuy đáp:
– Quân Thuỷ Chú của tôi lúc nào cũng có thể lên đường được ngay, chỉ e thừa cơ quân Tống Sơn lại đánh úp Lôi Dương!
Nguyễn Sĩ nói:
– Bao lâu nay hai họ Thuỷ Chú và Tống Sơn đều đề phòng nhau và bên này đều lo bị bên kia đánh úp nhưng tôi thấy điều đó chưa hề xảy ra. Tôi lại nghiệm rằng cứ khi nào họ Trịnh ra Thăng Long thì họ Nguyễn liền ra theo. Vì sao? Vì chúng sợ họ Trịnh chiếm mất vua. Ta ra Bắc lần này chắc chắn cũng sẽ thế vì vậy hãy chớ lo cho Lôi Dương này.
Trịnh Tuy khen:
– Ông nói chí lý lắm. Nhưng dẫu sao vẫn cứ phải đề phòng.
Trịnh Tuy liền để Trịnh Duy Liệu ở lại giữ Lôi Dương còn mình cùng Lê Do, Nguyễn Sĩ đi đường bộ kéo quân ra Bắc.
Từ lúc từ chối đem quân ra Bắc cứu giá, Nguyễn Hoằng Dụ bồn chồn không yên và lấy làm hối hận. Nghe quân do thám cho biết Trịnh Tuy đem quân ra Bắc, Hoằng Dụ càng rối hết ruột gan nên than thở với con:
– Từ khi Thái úy Trịnh Quốc công theo phò vua Thái Tông, nhất là từ khi con gái cụ được vua Thánh Tông phong làm Huy Gia hoàng hậu rồi trở thành Hoàng Thái hậu mẹ vua Hiến Tông, họ Nguyễn ta đến nay trải qua sáu, bảy mươi năm không lúc nào không có đại thần trong triều, cả họ trở thành rường cột của quốc gia. Vậy mà chỉ trong một lúc nóng giận từ chối không đem quân cứu giá, bao nhiêu công lao bị chính ta phủi sạch; tạo điều kiện cho Mạc Đăng Dung từ một ngư phủ quê mùa ở Cổ Trai, chỉ trong vòng 15 năm bỗng trở thành đệ nhất công thần nhờ hoà hoãn được với quân Sơn Tây, chẳng những không tốn một mũi tên, không mất một tên lính mà còn làm triều đình trong một lúc mất liền ba vị Ngự sử đại thần! Giờ đây bọn họ Trịnh lại ra Bắc, lập Lê Do làm Thiên Hiên, sắp tới tình hình không biết thế nào. Ta thật đáng trách, thật không ngu dại nào bằng!
Nguyễn Kim thưa:
– Cha yên tâm, triều đình chẳng những không bỏ được chúng ta mà còn cần chúng ta hơn bao giờ hết!
Dứt lời Nguyễn Kim vỗ tay ba cái, từ sau bình phong một người bước ra, đó là Bích Khê hầu Lê Công Uyên.
– Truyền cha con Nguyễn Hoằng Dụ nghe thánh chỉ! – Lê Công Uyên cao giọng dõng dạc, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim vội quỳ xuống.
Chiêu Tông có chỉ thăng Nguyễn Hoằng Dụ làm Thái uý; Nguyễn Kim làm Điện tiền chỉ huy sứ. Lệnh cho Hoằng Dụ mang quân Tam phủ ra kinh đô phò thiên tử.
Trao chỉ xong, Lê Công Uyên bảo Nguyễn Hoằng Dụ:
– Lần này vào đây, e tướng quân lại từ chối như lần trước nên tôi phải đến với An Thanh hầu trước. Đăng Dung tuy có công lui được quân Sơn Tây, nhưng thực ra y chỉ hoà hoãn được với bọn chúng chứ đâu đã trừ được tận gốc nên hoạ vẫn còn. Triều đình không thể dựa vào riêng Đăng Dung được vì không dám tin hẳn vào y. Cách đây không lâu chính y đã giết hai đại thần Đỗ Nhạc và Nguyễn Dự chỉ vì họ làm trái ý y. Đăng Dung bề ngoài thực thà ngay thẳng, miệng nói toàn những lời trung nghĩa nhưng bên trong biết đâu lại ngầm chứa mưu gian. Trước đây họ Thuỷ Chú và họ Gia Miêu là rường cột của quốc gia nhưng từ khi Duy Đại âm mưu thoán nghịch, Duy Sản lộ chân tướng là cha nuôi của Trần Chân, Trịnh Tuy thì cùng phe cánh với Chân, chỉ còn họ Nguyễn là chỗ dựa của triều đình mà thôi, vậy nên xin tướng quân gạt bỏ tuổi tác, chớ phụ lòng mong mỏi của Hoàng thượng, ra ngay kinh đô nắm quyền lớn, có thế mới ngăn ngừa được mọi hiểm hoạ.
– Triều đình còn chưa yên tôi chưa thể nhắm mắt được! Thế tướng quân đã biết việc Trịnh Tuy dựng Lê Do làm vua và liên kết với quân Sơn Tây, hiện đang tiến quân ra Bắc chưa?
– Có chuyện ấy ư? Lê Do là ai, tôi chưa từng nghe tên. Trịnh Tuy tìm đâu ra người ấy vậy?
– Ông là người trong ngoại thích của hoàng tộc mà còn không biết sao! Nghe nói Lê Do mới 11 tuổi, là con Kinh vương Lê Kiện. Lê Do chẳng qua chỉ là đồ phường chèo trong tay Trịnh Tuy mà thôi! Bọn Trịnh Tuy kéo quân ra Bắc nhưng không thể theo đường sông đường biển được vì không có thuyền lớn, cửa Hới lại do quân của tôi đóng giữ. Chúng phải theo đường bộ nên gặp rất nhiều trở ngại. Mưa gió bấy nay đã làm con đường hạ đạo chỗ cây cối rậm rạp, chỗ thì lầy lội, quân vừa đi vừa phải mở đường. Tôi tuy khởi binh chậm nhưng đi đường biển nên chắc chắn sẽ ra Đông Kinh trước.
Hoằng Dụ để Nguyễn Kim ở lại Tống Sơn; sai Đinh Công Lương, Đinh Công Đống làm tiên phong mang 50 chiến thuyền dong buồm ra Bắc. Lương, Đống là con Thượng thư Bộ Binh, Văn Thắng hầu Đinh Công Nhiếp, là cháu Chinh Lỗ đại tướng quân, Trung Mục vương Đinh Liệt, khai quốc công thần triều Lê.
Hoằng Dụ ra tới kinh đô, quả nhiên quân Trịnh Tuy còn chưa tới nơi. Vua Chiêu Tông thân hành ra tận cửa Đại Hưng để đón Hoằng Dụ. Vua tôi cùng vì cảm động. Chiêu Tông cho quân Tống Sơn nghỉ ngơi vài ngày rồi sai Hoằng Dụ cùng với Đăng Dung tiến đánh Sơn Tây. Hoằng Dụ hăng hái muốn lập công đầu, Đăng Dung nhận đánh trận thứ hai.
Hoằng Dụ xuất trận, cưỡi ngựa Nê đề, hai tướng họ Đinh hai bên. Phía quân Sơn Tây, Nguyễn Kính cưỡi ngựa ô câu, Nguyễn áng, Nguyễn Hiêu hai bên, sẵn sàng tiếp chiến. Nguyễn Kính tiến ra hỏi:
– Triều đình cam kết với ta không bên nào xâm hại bên nào, nay lại cho tiến quân là cớ làm sao?
– Thiên hạ tất cả đều của Hoàng thượng, làm gì có chỗ nào là của nhà ngươi! Nếu quân Sơn Tây hạ giáo quy hàng thì còn đường sống, chống lại thì chết. Gương giặc Tuân, giặc Cảo còn tầy liếp ngươi không nhớ sao?
– Lão già sắp chết kia nghe đây: Quang Thiệu nghe lời gièm pha vô cớ giết hại trung thần làm cho thiên hạ đại loạn. Mệnh trời giao cho nhà Lê sắp hết, núi sông nay không chỉ là của nhà Lê nữa, ai mạnh người nấy được, khôn sống mống chết. Được làm vua thua làm giặc, ta muốn vậy thì sao?
Nguyễn Hoằng Dụ nổi nóng:
– Bên kia đừng có nói lôi thôi, càn rỡ. Muốn đấu tướng, đấu quân hay đấu binh pháp?
Nguyễn áng ghé tai Nguyễn Hiêu nói: “Đấu binh pháp là đấu cái quái gì? Bày trận bảo là cửa sinh cửa tử rồi phất cờ phất quạt loạn lên cho bụi mù bụi mịt! Anh em mình đấu tướng.”. Nguyễn áng vác đao tiến ra. Đinh Công Lương thúc ngựa đối địch. Hai người quần đảo tới năm hồi trống rồi bên nào về bên ấy, bất phân thắng bại. Đến lượt Nguyễn Hiêu, bên kia thì Đinh Công Đống, cũng không ai thắng ai.
Nguyễn Kính chờ cho Nguyễn Hiêu về đến hàng quân mới thúc trống cho toàn quân giáp chiến. Quân Tống Sơn đi đường xa suốt mấy ngày liền vẫn còn mỏi mệt nên thua chạy. Nguyễn Kính sợ có phục binh nên cũng lui quân.
Hôm sau, Đăng Dung ra trận. Thấy Đăng Dung, Nguyễn Kính mắng luôn:
– Ta có nói với ngươi mấy điều, ta rút về Sơn Tây, ta không động đến triều đình, triều đình cũng không được động đến ta, sao triều đình sớm bội ước vậy?
– Không phải triều đình bội ước mà chính ngươi phản lại triều đình.
– Hiện nay nhà Lê chỉ còn hư danh, từ người anh hùng đến kẻ thảo khấu đều chờ dịp xưng hầu xưng bá. Ta chỉ là tướng dưới quyền Thiết Sơn tướng quân, đến tước tử, tước nam ta còn không được phong mà dám đường đường một cơ đồ; ngươi là bậc anh hùng đời nay, làm đến Vũ Xuyên hầu, trong tay vài nghìn binh mã, vài chục chiến thuyền sao chịu núp bóng hư danh mãi thế? Ngươi là chỗ thông gia với Thiết Sơn tướng quân nên ta thành thật khuyên ngươi hãy cùng ta, người xứ Đông người xứ Đoài cùng nhau mưu tính nghiệp lớn, không thì trước sau kẻ khác cũng sẽ làm như vậy, đến lúc đó ngươi có hối cũng không kịp.
Mạc Đăng Dung nổi giận quát:
– Ta tới đây là để bắt ngươi chứ không phải nghe những điều phản nghịch. Ngươi có dám đấu tay đôi với ta không?
Nguyễn Kính thúc con Ô câu tiến ra, Đăng Dung cũng cưỡi con Cát mã đối địch. Khi hai bên đến gần, Nguyễn Kính nói chỉ đủ cho Đăng Dung nghe thấy:
– Lúc nãy tôi nói những điều tâm huyết, mong tướng quân suy nghĩ.
Đăng Dung bảo:
– Tôi không có ý ra quân, nhưng nhà vua sai cùng với Hoằng Dụ đến đây thì phải đi. Nếu tướng quân nhường tôi thì tôi cũng nhường tướng quân. Ngày mai đến lượt Hoằng Dụ đánh trận tiếp, tuỳ tướng quân định liệu. Nhưng nếu ngày mai không xong, phải đánh sang ngày kia thì lúc đó tôi không thể nhường được.
– Tôi bằng lòng, xưa đã không được cùng tướng quân thử sức tranh Trạng nguyên võ thì nay âu là dịp thử sức nhau chơi!
Hai bên giáp chiến. Mạc Đăng Dung lão luyện, Nguyễn Kính trẻ trung hăng hái. Hai bên đánh nhau đến năm mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Đường đao của Đăng Dung biến hoá bao nhiêu thì ngọn thương của Nguyễn Kính cũng khó lường bấy nhiêu. Quân sĩ hai bên cứ ngay người ra mà nhìn. Đánh dăm hiệp nữa rồi Nguyễn Kính bảo ngừng, về sai Nguyễn áng ra đánh, bên này Mạc Quyết vào trận, tiếp đó Hoàng Duy Nhạc đánh với Mạc Đốc. Đến trưa, nắng lên hai bên cùng rút về trại.
Nguyễn Hoằng Dụ có ý không bằng lòng và trách Đăng Dung:
– Tướng quân vốn là Đô đầu Đại lực sĩ mà không thắng nổi tên vô danh tiểu tốt Nguyễn Kính! Cứ tướng đấu với tướng như thi võ như thế này thì biết bao giờ mới lui được giặc! Ngày mai tôi sẽ quyết chiến với giặc, có gì thì tướng quân tiếp ứng.
Hôm sau, không phải Hoằng Dụ mà chính quân Sơn Tây tấn công trước. Nguyễn áng bên phải, Hoàng Duy Nhạc bên trái, Nguyễn Kính đi giữa. Kỵ binh toàn dùng ngựa Tam Đảo, Ba Vì, Tản Viên, giống ngựa ta lai với ngựa Mông Cổ, Thổ Phồn từ đời nhà Trần, con nào con nấy như mãnh hổ. Hoằng Dụ sai Công Lương đón đánh Nguyễn áng, Công Đống đánh Duy Nhạc còn mình cùng mấy tì tướng đi giữa. Gần trưa, quân Hoàng Dụ bị dồn tới bờ hồ nước lớn gọi là hồ Đồng Mô. Hoằng Dụ thét lớn: “Chỉ vài bước lùi nữa là chúng ta bị rơi xuống hồ hết, sao không cố đánh để mà sống?”. Quân Dụ quyết chiến nên quân Sơn Tây phải lui.
Trong một tuần, hai bên đánh nhau mấy trận liền, không phân được thua. Vừa lúc ấy, Trịnh Tuy và Lê Do ra tới Từ Liêm. Nguyễn Kính, Trịnh Tuy từ hai phía đánh lại, Hoằng Dụ và Đăng Dung thua to. Hoằng Dụ nhằm phía Đông mà chạy, mũ vướng cành cây rơi mất. Nguyễn Kính cứ nhằm người cưỡi con ngựa trắng khoang đen mà đuổi. Một tì tướng của Hoằng Dụ thấy vậy liền đổi ngựa cho chủ. Nguyễn Kính đâm chết viên tướng ấy mới biết mình bị mắc lừa nhưng ngay đó lại nhằm người không có mũ, râu tóc bạc phơ để đuổi, trong khi đuổi dừng lại bắn ba phát tên, một mũi trúng lưng Hoằng Dụ. Dụ cắn răng nhịn đau đeo tên mà chạy. Kính lại nhằm bắn con ngựa của Hoàng Dụ, đến phát thứ hai thì trúng, con ngựa đau quá lồng lên hất Dụ ngã xuống đất. Nguyễn Kính vứt cung phóng giáo tới. Bỗng từ bên đường một viên tướng từ đâu chặn lấy mũi giáo của Kính:
– Không được hại An Hoà hầu!
Đó là Mạc Đăng Dung. Biết không địch nổi, Nguyễn Kính quay ngựa. Đăng Dung cũng không đuổi theo.
Hoằng Dụ chạy thẳng tới phường An Hoa và bến Thái Cực bên bờ Nhị Hà, quân sĩ biết vậy cũng lục tục đến đấy, mười phần chỉ còn ba, bốn. Tự liệu không thể thắng được Nguyễn Kính và Trịnh Tuy, trong khi đó có tin từ Thanh Hoa, Trịnh Duy Liệu cùng Trịnh Duy Thuân, Trịnh Duy Duyệt chia quân làm ba đường tiến đánh Tống Sơn, Hoằng Dụ liền dâng biểu tạ tội lên Chiêu Tông rồi không đợi chỉ dụ, ngay ngày hôm đó rút về Thanh Hoa. Về đến Tống Sơn mới biết tin họ Trịnh đánh Tống Sơn chỉ là kế nghi binh của Trịnh Tuy. Từ đó Hoàng Dụ trở nên u uất, cùng với vết thương chưa khỏi hẳn và tuổi cao khiến Hoằng Dụ trở bệnh, lúc đầu còn nhẹ, sau mỗi lúc thêm trầm trọng. Biết không qua khỏi, Hoằng Dụ gọi Nguyễn Kim vào dặn:
– Cha đã trải qua đến sáu đời vua, những tưởng qua được năm Đoan Khánh, năm Hồng Thuận, đến năm Quang Thiệu thì được thấy anh quân, triều đình sẽ vững lên, ai ngờ mỗi lúc một thêm xuống dốc. Vua Quang Thiệu là người hiền đức nhưng không gượng lại được với thời vận. Từ chuyện chia rẽ trong hoàng tộc đời Đoan Khánh nay thành chuyện cát cứ phân liệt. Cha mang ân lộc triều đình rất nặng nên bao nhiêu năm nay cúc cung tận tuỵ hàn gắn, vua sai đi đâu đi đấy không kể tuổi tác, ai ngờ lực bất tòng tâm, đã vỡ lại càng làm vỡ thêm! Trần Chân ngày trước có là cái gì, Kính, áng càng không là cái gì, ru rú một góc Sơn Tây nào ai biết tới! Mạc Đăng Dung ngày trước cũng có là gì, chẳng qua chỉ là kẻ võ biền ở vệ Thiên Vũ, chỉ biết chăm chắm lo cho trấn Sơn Nam chứ có đi được đâu, vậy mà bây giờ chỉ nghe tên y thôi, bọn Quốc công, Quận công đại thần đã khiếp vía, nhà vua cũng phải e nể. Tình thế đã vậy, đáng lẽ lúc này các hoàng thân và đại thần phải ráng sức xây đắp thì lại phá thêm, nhân lúc rối ren đục nước béo cò âm mưu dựng người của mình lên để dễ bề sai khiến. Tệ hại nhất là bọn họ Trịnh. Trách chúng mà lại giận hoàng gia vì nguyên do cái tội phân liệt, làm cho thiên hạ chia rẽ. Cơ sự rối ren là chính tại hoàng gia đồi bại và tự hại mình, như Tương Dực đấy, bỗng chốc giết 15 hoàng thân. Con ạ! Thanh Hoa là đất dành cho kẻ anh hùng, ra Bắc, vào Nam tiến thoái đều thuận tiện; Đông thì biển, Tây thì nước Lão Qua, khắc ẩn khắc hiện khôn lường, gặp khi khốn cùng muốn chạy cho thoát thì không ai làm gì được. Triều đình bây giờ như căn nhà bao nhiêu cột cái cột quân cho đến rường xà đều mục ruỗng hết cả, tài của con gấp mười lần cha, nếu thấy không thể vực lại được triều đình thì hãy học cái cách của nhà Trần ngày trước mà thay đổi nó đi, đừng cố như cha mà nhọc công. Con cũng đã hơn 50 tuổi rồi, thời gian không còn nhiều đâu!
Nói xong, Hoằng Dụ thở dốc một hồi, ngực căng lên, mắt trợn ngược, tắt thở. Nguyễn Kim báo tang lên triều đình, vua Chiêu Tông nghe tin vô cùng thương xót, ban chỉ truy thăng làm Thái sư Trừng Quốc công.
*
Năm Quang Thiệu thứ tư (1519), vua Chiêu Tông sai Vũ Xuyên hầu Mạc Đăng Dung làm Đô đốc, được phép điều quân các nơi để đánh dẹp Lê Do, Trịnh Tuy, Nguyễn Kính. Đăng Dung sai người mang lệnh đi Sơn Nam, Hải Dương, Kinh Bắc, trong chưa đầy một tháng, các nơi mang quân về đông tới một vạn. Đăng Dung chia làm hai đường, đường thuỷ ngược sông Hồng tiến đánh Sơn Tây, đường bộ đánh Từ Liêm.
Mạc Đăng Dung cho người bí mật mang thư tới gặp Nguyễn Kính, bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khuyên đầu hàng triều đình. Nguyễn Kính thấy tình hình đã khác nên bằng lòng án binh bất động, ai thắng thì theo. Đăng Dung liền đánh thẳng vào hành điện của Lê Do và Trịnh Tuy ở Do Nha. Trịnh Tuy sai người lên Sơn Tây cầu cứu Nguyễn Kính, lúc đó mới biết Kính khoanh tay ngồi yên. Trịnh Tuy, Nguyễn Sĩ thấy bất lợi bèn chạy về Thanh Hoa để bảo toàn lực lượng. Lê Do, Nguyễn áng chạy vào núi Viên Nam, sau này bị bắt ở đấy.
Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc xin hàng, giao hết binh lực cho triều đình, Đăng Dung dâng biểu xin vua tha tội cho họ rồi thu nạp làm thuộc tướng.
Xét công lao cứu giá, vua Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công, từ đó Đăng Dung ở lại kinh đô, chức Hữu đô đốc Tổng trấn Hải Dương tâu vua giao cho Nguyễn Bỉnh Đức. Vì Sơn Tây không có ai trông coi, Đăng Dung dâng sớ tiến cử Vũ Hộ làm trấn thủ. Vua bằng lòng cho Vũ Hộ tạm quyền coi giữ nơi này. Mấy năm sau, Vũ Nghiêm Uy nổi dậy ở Đại Đồng, Tuyên Quang, Đăng Dung tâu vua cho Vũ Hộ mang quân đi đánh. Vũ Hộ đánh được, bắt sống Nghiêm Uy đem về kinh trị tội, bấy giờ Chiêu Tông mới tin cậy cho Vũ Hộ làm Tổng trấn Sơn Tây, ban tước Quỳnh Khê bá.
Cuối năm, Phạm Gia Mô gả con gái mình cho Mạc Chính Trung, con trai con trai thứ của Mạc Đăng Dung. Đầu năm sau Đăng Dung gả con gái lớn là Ngọc Thọ cho Nguyễn Quốc Hiến. Cả hai đám cưới các quan trong triều đến mừng không thiếu một ai. Ngay Thái hậu và nhà vua cũng cho người mang quà mừng tới. Cuối năm, Đăng Dung tâu Chiêu Tông cho Nguyễn Quốc Hiến giữ binh trấn Sơn Nam, nhà vua chuẩn y.
Thiên hạ thái bình được một thời gian thì có tin từ phương Bắc báo về: Dư đảng của Trần Cảo năm xưa chưa trừ diệt hết nên nay con Cảo là Trần Thăng nổi lên chiếm giữ Thái Nguyên, Bắc Giang, Lạng Sơn, chặt đứt con đường sang sứ Bắc quốc, tình hình rất nguy ngập.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.