- Đang online: 2
- Hôm qua: 918
- Tuần nay: 15461
- Tổng truy cập: 3,368,915
Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung
- 286 lượt xem
Phần 25
Dương Kinh những ngày cuối thu năm Giáp ngọ (1534) thật khác thường. Xe ngựa đưa các đại thần từ Đông Kinh tấp nập trên lối vào Cổ Trai, tới đậu san sát trên lối vào điện Tường Quang, điện Phúc Huy, điện Hưng Quốc.
Bến đò An Sáp cũng nườm nượp lâu thuyền. Quang cảnh hệt như ngày xưa ở Bình Than vua Trần triệu các tướng tới để bàn việc nước, không muốn bàn ở Đông Kinh để tránh tai mắt của kẻ nghịch tặc.
Thái thượng hoàng và Hoàng đế nhà Mạc ngự trên điện nghe các văn thần võ tướng trình bày kế sách. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung nói:
– Đúng như ta đã đoán trước, Bọn Lê Ninh, Nguyễn Kim, Trịnh Duy Liệu hèn hạ không thắng được ta đã sang Bắc quốc cầu cứu nhà Minh. Cái tội rước voi dày mả tổ ấy hãy để người đời sau phán xét. Nay Cừu Loan là tướng giỏi của nhà Minh, đã từng nhiều lần cầm quân đánh bộ lạc Đạt Đán của người Mông Cổ, Mao Bá Ôn thì vừa được phong làm Thượng thư Bộ Binh, điều đó chứng tỏ vua Minh quyết tâm thôn tính Đại Việt ta. Ta và nhà vua muốn được nghe ý kiến của các khanh.
Liêm Quận công Nguyễn Bỉnh Đức tâu:
– Ta chỉ có hai con đường hoặc là đánh, hoặc là đầu hàng. Theo thần thì quyết đánh. Vua Minh tuy hung hăng thế nhưng không phải không có điều phải e sợ Đại Việt ta. Những thất bại của các triều trước và của chính Minh Thành Tổ còn được họ ghi trong Tổ huấn để truyền dạy cho đời sau. Vì sợ nên đám quan quân biên trấn nước họ mười người thì chín người không muốn Nam chinh, chỉ những kẻ như Cừu Loan là hăng hái. Cũng vì sợ nên vua Minh phải điều đến các tướng giỏi là Cừu Loan và Mao Bá Ôn. Vậy nên nếu ta tỏ rõ quyết chiến thì ắt quân Minh phải chuốc lấy bại vong. Nhưng muốn thế ta phải có thực lực không thì không tránh khỏi thảm hoạ như cha con Hồ Quý Ly. Thực lực đầu tiên là lòng người nhất nhất đều thuận. Ngày trước Hồ Nguyên Trừng có nói với cha mình: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không mà thôi.”. Lòng dân đã thuận thì hào khí Đông A ngày trước sao lại không trở lại với xã tắc hôm nay. Thực lực thứ hai phải có là binh lực đủ mạnh. Do đó cần mau tu sửa trại sách, tuyển thêm binh lính, đóng thuyền luyện tập thuỷ quân, học theo người xưa đóng cọc ở các cửa sông, phép dụnh binh tha hồ nói dối nên có một thì nói thành mười để phô trương thanh thế; đồng thời phải có tướng giỏi dày dạn trận mạc cầm quân, vậy nên cần trưng tập các cựu thần lão tướng đã nghỉ việc quân trở lại bàn chính sự và nắm việc quân. Thứ ba là cách đánh, giặc vào cõi còn như thế nước cường thì ta vừa đánh vừa rút để bảo toàn lực lượng, chờ cho giặc suy kiệt vì không hợp thuỷ thổ và chán nản vì không thẳng nổi dễ dàng, lúc bấy giờ sẽ phản công, chắc sẽ đuổi được giặc khỏi cõi.
Khiêm Quận công Lê Bá Ly nói:
– Liêm Quận công nói rất đúng nhưng tình hình rất gấp, vả lại dẫu sao tránh được binh đao vẫn là hơn, vậy nên một mặt làm như Liêm Quận công đã trình bày, một mặt nên tìm cách hoà hoãn. Để hoà hoãn, ta nên sai người sang nhà Minh trình bày rằng hoàng thất nhà Lê tàn sát lẫn nhau nên không có người nối dõi, nhà Mạc phải tạm trông coi việc nước; còn như Lê Ninh chẳng qua chỉ là mạo danh. Ta hãy dựng chuyện Ninh chính là con của Nguyễn Kim. Vả lại việc Kim tìm ra Lê Ninh vị tất đã đúng. Cùng với đó, đem vàng bạc đút cho đám quan lại biên trấn ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam để chúng ngăn trở bọn Cừu Loan, Mao Bá Ôn. Nhùng nhằng mãi, đủ cho ta chuẩn bị các mặt và làm cho giặc chán nản.
Đang lúc đó, Vũ Huấn đem thư của cha mình là Tĩnh Quốc công Vũ Hộ dâng Thái thượng hoàng và nhà vua. Thượng hoàng xem xong, nói với các quan:
– Tĩnh Quốc công thực trung nghĩa, tuy đã về nghỉ nhưng nghe tin nhà Minh đe doạ biên cương, đã viết thư nguyện trở lại nắm việc quân và hiến kế: Hiện giặc còn ngoài cõi và đang khinh địch, vậy nên học theo cách của Lý Thường Kiệt ngày trước, mang quân đánh sang Quảng Đông, Quảng Tây tiêu huỷ các kho lương và quân nhu của giặc để giặc chưa thể đánh ngay nước ta. Tĩnh Quốc công cũng bàn nên đóng cọc rào các cửa sông, đặc biệt là hai cửa Bạch Đằng và Minh Liễn; cho xây thành ở Cao Bằng, Lạng Sơn, tăng cường các trạm truyền đăng và học theo cách “Quan Công tuần thành”. Tuyển quân, để cho nhanh thì vừa theo cách “Hàn Tín điểm binh” vừa đưa lên Đấu Đong Quân ở núi Voi, An Lão. Cứ một đấu là được hai nghìn người. Núi Voi còn tiện cho việc luyện quân sơn cước.
Tín vương Mạc Quyết tâu:
– Tĩnh Quốc công khẳng khái thế, chúng ta sao lại không dốc lòng. Thần xin cùng Tĩnh Quốc công mang quân chinh Bắc!
Mọi người cùng xôn xao bàn tán, ai cũng muốn đánh. Thấy Thái thượng hoàng vẻ đăm chiêu, nhìn xuống các quan thì Thái sư Hải Quốc công Phạm Gia Mô từ nãy đến giờ trầm ngâm không tham gia vào cuộc bàn tán, vua Mạc hỏi:
– Hải Quốc công, khanh thuộc hàng nhất phẩm của triều đình mà không có ý kiến gì sao?
Phạm Gia Mô đắn đo một lúc rồi tâu:
– Thần nghĩ cái thế của chúng ta bây giờ có khác với thời của Lý Nhân Tông nên dẫu có muốn học theo cách của Lý Thường Kiệt cũng khó. Vả lại ngay Lý Thường Kiệt sau khi công phá đất giặc cũng phải lui về cầm cự ở sông Như Nguyệt. Theo ý thần thì vua Minh và bọn Cừu Loan, Mao Bá Ôn tuy ráo riết thế nhưng nếu quan quân biên trấn của chúng không hăng hái thì việc tiến quân chưa chắc đã được nhanh chóng. Hơn nữa, nếu chúng ta khéo léo thì còn tránh được cả binh đao, mà tránh được binh đao, dân chúng yên hưởng thái bình, lại giữ được bờ cõi thì còn quý hơn cả đầu rơi máu chảy để mà chiến thắng. Vậy nên phải chăng nên theo như cách của Khiêm Quận công là hơn.
Thái thượng hoàng nói:
– Các quan dẫu người bàn thế này người bàn thế khác nhưng đều một lòng tận trung với nước và dâng nhiều kế sách hay. Ta thì có ý chủ hoà chứ không chủ chiến vì dẫu sao để xảy ra can qua với nhà Minh cũng là điều bất lợi. Nhưng nếu hoà không được thì quyết đánh. Vậy nên sẽ vừa hoà vừa sẵn sàng cự địch. Do đó, các quan ai ở đâu, làm việc gì hãy cứ về đấy mà trông coi các việc như cũ, chờ chỉ dụ của triều đình rồi thì hành động. Trong lúc chờ đợi thì lo việc chăn dân và coi sóc mùa màng, từ trên xuống dưới đồng lòng, thực túc binh cường thì giặc mạnh đến mấy cũng không sợ. Bộ Binh, Bộ Công thì làm các việc như các quan đã bàn là xây thành đắp luỹ, đóng cọc ngăn sông, sắm sửa quân trang, tuyển thêm binh lính. Triều đình có cấm quân và lộ quân thì phải tăng cường lộ quân hơn nữa. Lệ trước đây các nhà có 3 đàn ông thì một người đăng ngũ, nếu giặc tràn sang thì gọi thêm người nữa. Lập thêm các Đấu Đong Quân ở các trấn chưa có để sẵn sàng tuyển quân.
Thái thượng hoàng đứng dậy nói tiếp:
– Nay sai Ninh vương Mạc Phúc Tư coi giữ Đông Đạo, cai quản vùng biển, đắp thành trì ở vùng sông Bạch Đằng, lập Đấu Đong ở đó. Khiêm vương Mạc Kính Điển coi giữ Bắc Đạo cùng Mạc Văn Minh giữ đất Cao Bằng, Lạng Sơn. Định vương Mạc Phúc Sơn coi giữ Tây Đạo, chặn ngả Quy Hoá, Tuyên Hoá. Hoằng vương Mạc Chính Trung coi giữ Nam Đạo, Thanh Hoa, Nghệ An. Cho gấp người vào Thuận, Quảng dặn Khang vương Mạc Nhân Phủ, Quảng vương Mạc Quang Khải đừng cậy ở xa mà không đề phòng vì vào thời Trần tướng Nguyên là Toa Đô đã từng theo đường biển vào đánh tận Chiêm Thành rồi từ đấy theo đường bộ quay lên mặt Bắc đánh suốt lên đến tận Sơn Nam và chỉ chịu thua ở Hàm Tử khi còn cách Thăng Long không xa.
Đang lúc ấy, có ngựa lưu tinh từ kinh đô về Cổ Trai phi báo Tĩnh Quốc công Mạc Bang Hộ (Vũ Hộ) mới mất, gọi Mạc Bang Huấn (Vũ Huấn) về ngay chịu tang. Người đưa tin nói: Tĩnh Quốc công vốn mang bệnh đã lâu, nghe tin giặc đến ngoài cõi nên đêm đêm trằn trọc thành ra bệnh thêm nặng, mất thọ được 54 tuổi. Hoàng thái tử giám quốc Mạc Phúc Hải đã thay mặt Thái thượng hoàng và nhà vua ban cho 500 quan tiền tuất. Thượng hoàng Đăng Dung cố nén xúc động nói với các quan:
– Trong các khai quốc công thần thì Tĩnh Quốc công là bậc nhất. Hồi ấy Quốc công mang 3000 quân theo ta, rồi về sau quyết giữ Sơn Tây nắm Tây quân còn ta ở Hải Dương nắm Đông quân, hai bên phối hợp nên mới thắng được Quang Thiệu và có ngày nay. Quốc công mất đi ta khác nào mất đi một cánh tay, nước nhà mất đi rường cột! Quốc công sống lẫm liệt, mất linh thiêng sẽ phù hộ cho triều đình.
Tháng 11 năm ấy vua Mạc Đăng Doanh tặng tên thuỵ cho Mạc Bang Hộ là Đảng Lượng và ban thêm cho 1000 quan tiền để cúng giỗ và xây lăng mộ.
Phạm Chính Nghị được lệnh của triều đình mang thư của Thượng hoàng Mạc Đăng Dung sang Vân Nam trao cho tướng trấn thủ ở đấy là Mộc Triều Phụ cậy nhờ dâng cho vua nhà Minh. Thư viết, vì Quốc vương nhà Lê bị Trần Cảo giết, không có con trai nên phải đưa em là Huệ lên thay. Huệ lại bị gian thần là Đỗ Ôn và Trịnh Tuy đưa vào Thanh Hoa nên triều đình phải dựng em của Huệ là Khoáng lên ngôi rồi vào Thanh Hoa đón Huệ. Sau cả Huệ và Khoáng đều bị bệnh chết, nhà Lê không có người nối dõi vì vậy khi sắp mất Khoáng có nói với triều thần rằng: “Cha con Đăng Dung đều có công với nước, vậy giao ấn tín cho y để giữ nước”. Bởi thế cả nước tôn Mạc Đăng Dung lên ngôi vua. Sở dĩ không dâng biểu xưng thần và nộp cống là bởi bị giặc Trần Thăng chiếm cứ Lạng Sơn, nghẽn đường nên không đi được, về sau thì lại bị quan giữ ải của thượng quốc đóng cửa ải không cho qua. Còn như Lê Ninh thực ra là con của tên loạn thần Nguyễn Kim chứ không phải con trai của Lê Huệ…
Vua Minh Thế Tông đọc thư, so sánh với lời tấu của các quan ở vệ Cẩm Y và của Trịnh Duy Liệu, thấy thư nói không đúng sự thật, lấy làm bực lắm liền đốc thúc Cừu Loan và Mao Bá Ôn mau tiến quân. Hai tướng kéo quân đến biên ải thì được tin Đại Việt đang ráo riết xây thành đắp luỹ, luyện tập thuỷ quân và cho đóng cọc rào các cửa sông, không những thế còn sẵn sàng đánh sang Lưỡng Quảng nên có ý sợ, liền dừng lại, dâng biểu lên vua Minh xin chỉ dụ. Quay đi quay lại, một năm nữa trôi qua đầy những lo âu phấp phỏng nhưng rốt cuộc không có chuyện gì xảy ra.
*
Năm ất mùi (1535) bắt đầu bằng những ngày đầy lo âu về nạn ngoại xâm, song dẫu có thế nào thì năm hết Tết đến cũng ngập tràn không khí mùa xuân. Không khí ấy ở Trung Am, huyện Vĩnh Lại dường như còn khác thường nữa bởi ai ai cũng nói với nhau rằng Nguyễn Văn Đạt không đi thi thì thôi, đã đi thi là “nhất cử đăng khoa”, chẳng những vậy còn đỗ cao nữa. Năm trước ông đã đổi tên là Bỉnh Khiêm để đi thi Hương và đỗ Giải nguyên, năm nay thể nào cũng đỗ Hội nguyên rồi Đình nguyên – Trạng nguyên. Như vậy sẽ là tam nguyên. Đỗ đầu cả ba kỳ thi đời này hiếm lắm. Mà người đâu lại gan thế không biết, những bốn mươi mấy tuổi mới đi thi. Thiên hạ kẻ bảo cuối cùng thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không qua được cái nghĩa lý phải danh chính thì ngôn mới thuận, có xuất thân khoa cử thì mới có vị thế trong cõi đời; người lại nói đó là bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gặp được ông vua tài đức là vua Đại Chính mà ông từng ao ước, đã thấy rõ thời thế đổi thay để mà thể hiện tài năng, còn như nếu vẫn còn những vua quỷ vua lợn như Uy Mục, Tương Dực, hay thời cuộc vẫn đen tối như những năm Quang Thiệu, Thống Nguyên, thì ông thà suốt đời cày nhàn câu vắng chứ không bao giờ xuất thế… Thiên hạ nói gì thì nói, chỉ biết Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi thi và quả nhiên đỗ đầu cả ba kỳ thi. Kỳ thi Hội thi Đình năm ấy lấy đỗ 32 tiến sĩ. Cùng đỗ kỳ đó còn có Đỗ Tấn, là em Đỗ Tổng trúng Trạng nguyên năm Minh Đức thứ ba. Chuyện này lại càng làm Bỉnh Khiêm tin việc mình ra thi là đúng vì hiếm thấy một triều đại nào lại giàu lòng vị tha đến thế.
Vua Mạc Đăng Doanh cũng dành cho Nguyễn Bỉnh Khiêm ân sủng đặc biệt: sau khi bổ chức Hiệu thư ở Viện Hàn lâm, đã mời vị quan Trạng tân khoa về Cổ Trai dự cuộc hoạ thơ của vua. Tham dự có hầu hết các đại khoa đương triều. Các vị đại khoa đều mang theo người nhà hoặc người hầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang theo học trò là Nguyễn Dữ. Tuy từ trước đến nay từng có nhiều học trò giỏi nhưng có tài về văn chương thì Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ thấy có Nguyễn Dữ. Nguyễn Dữ thích viết truyện và có đưa cho thầy mấy truyện xin thầy nhuận sắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đọc xong, khen: “Viết thế này đáng được gọi là kỳ bút”! Thầy trò còn hợp nhau ở sự thẩm thơ. Một lần Nguyễn Bỉnh Khiêm bảo Nguyễn Dữ nhận xét thơ của người xưa, Nguyễn Dữ nói: “Thưa thầy, con thấy thơ ông Chuyết Am kỳ lạ mà tiêu tao, thơ ông Vu Liêu tuấn tiễu mà kích thích, thơ ông Tùng Xuyên như chàng trai xông trận, có vẻ sấn sổ, thơ ông Cúc Pha như cô gái chơi xuân, có vẻ mềm yếu. Đến như ông Đỗ ở Kim Hoa, ông Trần ở Ngọc Tái, ông Đàm ở Ông Mặc, ông Vũ ở Đường An không phải là không ngang dọc tung hoành, nhưng cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong nhã phải phục thì chỉ duy những bài đầy lời trung ái của ông ức Trai là có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được”(*). Nguyễn Bỉnh Khiêm khen nhận xét tinh tế.
Gặp hai anh em Nguyễn Chuyên Mỹ, Nguyễn Đốc Tín, Nguyễn Bỉnh Khiêm thân tình tặng họ đôi câu đối: “Đồng thế đồng triều tam tiến sĩ/ Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh quy”, bởi ông thân sinh ra hai người là Nguyễn Kim cũng đỗ tiến sĩ trước đấy và họ thì đỗ cùng một khoa. Với Trạng nguyên khoa Bính Tuất (1526) Trần Tất Văn, Nguyễn Bỉnh Khiêm càng tay bắt mặt mừng vì họ vốn biết nhau từ trước.
Nhà vua xướng bài Xuân thiên ngự giảng cho các quan cùng hoạ. Bài hoạ của Trạng Trình làm Thượng hoàng và Hoàng đế rất hài lòng. Nói chung hôm ấy rất vui, chỉ đôi ba người lấn cấn về sự vắng mặt của ông Trạng khoa Mậu thìn Nguyễn Giản Thanh. Ngày trước, khi thầy Đàm Thận Huy ra câu thách đối, câu Nguyễn Giản Thanh đối được thầy khen hay nhưng đoán sau này tất vì sắc dục mà hại lây đến sự nghiệp, giờ mới nghiệm thấy đúng: Giản Thanh đi lằng nhằng với gái có chồng, đã không lấy được người ta, lại bị kiện nên phải rời việc quan, về nhà xấu hổ không dám đi đâu! Chê trách Giản Thanh bao nhiêu, lại thấy Thận Huy thực là bậc kỳ tài trong thiên hạ, đọc văn mà đoán được nết người.
Vua Mạc cho rằng qua ba khoa thi của đương triều, suốt 9 năm trời chỉ lấy đỗ được 86 tiến sĩ: năm Kỷ sửu (1529) chọn được 27 tiến sĩ, khoa Nhâm thìn (1532) cũng 27 người, khoa ất mùi (1535) này 32 người; như vậy là quá ít. Trong khi đó triều Lê số người đỗ từng khoa thường từ 50 đến 60. Tất nhiên sĩ tử miền Thanh Nghệ mấy năm nay không ra thi được cũng là lý do khiến số người đỗ ít đi nhưng đó không phải là lý do chính vì việc học trong đó từ xưa đến nay còn chưa được mở mang và số sĩ tử hai nơi ấy đỗ đạt không nhiều, nhiều nhất là ba trấn Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Lý do chính là bởi triều đình mấy năm nay còn phải lo nhiều việc nên sự học đúng là chưa được chăm lo thoả đáng. Nghĩ như vậy nên mùa xuân năm Bính thân (1536), nhân lúc nghỉ thi, vua Mạc Đăng Doanh đã sai Khiêm quận công Mạc Đĩnh Khoa tu sửa lại trường Quốc tử giám để chuẩn bị gọi con em các quan đại thần và một số học trò xuất sắc từ các nơi đến học; đồng thời lệnh cho các trấn sửa sang các trường thi để chuẩn bị đón sĩ tử dự thi Hương khoa tới. Đành rằng trường thi vốn là những cánh đồng sau khi gặt hái không trồng cấy nữa, nhưng phải lưu ý chọn những thửa rộng cao để không ảnh hưởng đến việc sĩ tử dựng lều kê chõng làm bài, vì nghe nói khoa vừa rồi ở trường thi Sơn Nam, nhiều sĩ tử gặp phải chỗ ruộng trũng, đất mềm nên đang làm bài giữa chừng thì chõng lún, lại phải dọn đi chỗ khác khiến không còn đủ thời gian để làm bài. Bộ Lễ và Bộ Công phải đôn đốc sâu sát, có việc gì phải tâu lên triều đình kịp thời. Thái tử Mạc Phúc Hải sẽ đích thân đi kiểm tra các nơi. Một hôm Mạc Phúc Hải đột ngột đến Chí Linh, trấn Hải Dương là nơi được chọn làm trường thi Hương của trấn, thấy mọi việc đều chu tất, liền bảo Bộ Lễ truyền các nơi đến học hỏi.
Tháng Giêng năm Đinh dậu, niên hiệu Đại Chính thứ 5 (1537), vua Mạc Đăng Doanh đến trường Thái học làm lễ Thích điện tế tiên thánh tiên sư, cầu cho một khoa thi tốt đẹp, các sĩ tử gặp nhiều may mắn.
*
Cuối năm ấy, sau bao lần trì hoãn, nhà Minh tiến quân áp sát biên giới. Năm đó là năm Gia Tĩnh thứ 15 nhà Minh, Minh Thế Tông vừa sinh Hoàng tử. Việc này được thông báo tới các nước phụ thuộc để họ đến mừng. Các nước đều đến đủ, lễ vật rất nhiều, duy
Đại Việt không thấy đâu! Thượng thư Bộ Lễ là Hạ Ngôn nhân đó lại dâng biểu xin vua thúc Cừu Loan và Mao Bá Ôn sớm hỏi tội Mạc Đăng Dung. Minh Thế Tông nghĩ mình là vua nước lớn mà lại bị nguỵ vương nước nhỏ khinh nhờn thì không thể được, liền sai người cấp tốc truyền chỉ xuống phương Nam lệnh xuất quân không được trì hoãn. Chỉ có nhắc đến việc khi tiễn Mao Bá Ôn lên đường, Minh Thế Tông còn tặng một bài thơ để khích lệ. Cừu Loan bảo:
– Hoàng thượng không tặng thơ tôi mà lại tặng ông, qua đó đủ biết Hoàng thượng thật ưu ái ông!
Biết Cừu Loan có ý ghen, Mao Bá Ôn đáp:
– Đấy là Hoàng thượng thấy tôi có ý ngại Nam chinh nên dùng thơ để khích lệ. Ông thì Nam chinh Bắc chiến không nơi nào không có mặt, đến như Phục ba Mã Viện có sống lại cũng không bì nổi nên Hoàng thượng chỉ cần trao cho chức Đô đốc thế là đủ, còn hơn hàng nghìn câu thơ câu phú.
– Bài thơ thế nào, tôi chưa biết.
Mao Bá Ôn đọc bài thơ (**) rồi nói:
– Hoàng thượng gửi gắm lòng tin đến vậy, nên nếu lần này chúng ta vẫn không tiến quân thì sao tránh khỏi tội lớn!
– Khốn nỗi quan quân Lưỡng Quảng cứ kiếm hết cớ nọ đến cớ kia mà trì hoãn việc binh thì biết làm sao được! Ngày trước là Tuần án ngự sử Quảng Đông Dư Quang, bây giờ lại đến lượt Phan Đán. Cha Đán là Phan Trân trước đây chính vì tội can Hoàng thượng không nên cất quân Nam chinh mà bị đuổi về, thế mà Đán vẫn không kinh, kể cũng lạ!
Cừu Loan nhắc đến chuyện Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phan Đán thấy việc Nam chinh không có lợi, kiên quyết dâng sớ lên vua Minh. Sớ viết: “Dấy quân tức là cần lương thực, binh sĩ. Hiện nay Tứ Xuyên lo việc thái mộc, Lưỡng Quảng tuy có trừ bị vài mươi vạn quân nhưng đã bị hao về việc Sầm Mãnh ở Điền Châu, lại thêm phải khởi công xây dựng nhiều việc lớn lao, số quân này đang bị trưng dụng vào các việc đó, nay hưng binh thì đâu cung cấp người và của? Vả lại, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê thì cũng như họ Lê cướp ngôi họ Trần vậy; nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì đối với quốc thể cũng đủ vậy. Thần liều chết dâng sớ, mong Hoàng thượng xem xét”. Nội dung của sớ trươvs khi mang đi Yên Kinh có được Phan Đán nói cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn. Không riêng gì Phan Đán mà ngay Cừu Loan cũng tin thể nào nhà vua cũng chuẩn y kế sách đó nên giờ đây, nhận được chỉ thúc giục tiến quân, Cừu Loan nói với Mao Bá Ôn:
– Sớ của Phan Đán chưa tới được Hoàng thượng nhưng khi đã tới có khi Hoàng thượng lại có chỉ khác ban tới cho mà xem. Vì vậy chúng ta hãy chờ ít ngày nữa xem thế
rồi hãy tiến hẵng tiến quân cũng chưa muộn.
Lưỡng Quảng cách Yên Kinh muôn vạn dặm đường, sớ từ Lưỡng Quảng lên tới Yên Kinh rồi chỉ dụ lại từ Yên Kinh xuống Lưỡng Quảng, thời gian mất hàng năm trời. Vì vậy dọc sớ của Phan .Đán, Minh Thế Tông bực lắm, bảo quần thần:
– Trẫm vừa ban chỉ thúc dục tiến quân cách đây chưa đầy một năm thì lại nhận được sớ Phan Đán tâu lên! Cứ thế này thì đến bao giờ mới xong được việc trừng trị Đăng Dung! Cha Đán là Trân đã bị đuổi về quê vì tội can gián không nên Nam chinh vậy mà mà Đán vẫn không sợ sao?
Trương Toản tâu:
– Phan Đán liều chết mà dâng sớ như vậy hẳn đã suy nghĩ rất kỹ nên suy ra y không phải không có cơ sở. Ngày trước, vào năm Hồng Vũ thứ 8, quan Trung thư có nói: An Nam là một nước văn hiến vậy nên lấy lễ độ mà dẫn dắt. Nay Phan Đán cũng nói vậy, thế nên bước đầu ta hãy viết thư quở trách, nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như đã chịu thần phục, nếu y vẫn tỏ ra khinh nhờn, lúc đó mang quân hỏi tội cũng chưa muộn. Nay rợ Đạt Đán và tộc Nữ Chân ở phương Bắc mỗi ngày một mạnh mới chính là mối lo lớn cho triều đình, xin Hoàng thượng cân nhắc. Thần còn nghĩ có khi phải gọi Cừu Loan trở về Yên Kinh để cùng với Nghiêm Tung trấn giữ Trường Thành mới xong.
Minh Thế Tông lặng im không nói gì. Rợ Đạt Đán là một bộ lạc Mông Cổ. Nhà Nguyên không còn nhưng những bộ lạc của người Mông Cổ thì vẫn còn và vẫn là mối lo lớn đối với Trung Quốc. Vua Đạt Đán là Yểm Đáp đã mấy lần cho quân đánh tới tận Trường Thành và còn doạ sẽ đánh xuống Yên Kinh! Cũng như vậy, nước Kim tuy đã mất nhưng tộc Nữ Chân thì không chịu cảnh phụ thuộc nên đang tìm cách đánh đuổi người Minh, thành lập nhà Hậu Kim.Trương Toản nói có lý, phương Bắc quả mới là mối lo lớn của nhà Minh.
Mấy tháng sau tháng sau, Cừu Loan và Mao Bá Ôn nhận được chỉ dụ mới của Thế Tông. Điều này Cừu Loan đã đoán trước nhưng y không ngờ mình lại bị gọi về kinh. Cừu Loan bảo Mao Bá Ôn:
– Phen này có khi nhà vua lại điều tôi lên mạn Bắc cự nhau với quân Đạt Đán đây!
– Lần này có khi Hoàng thượng có thơ tặng ông cũng nên.
Cừu Loan không nói sao, lặng lẽ rót rượu và thở dài.
Cừu Loan đi rồi, dựa vào ý của chỉ dụ, Mao Bá Ôn viết thư và cho người đem sang Đại Việt, đe doạ đem quân sang đánh và đòi nếu đích thân Mạc Đăng Dung tới Nam Quan nộp sổ sách ruộng đất, hàng năm cống nạp và chịu tội thì được tha tội chết. Mao Bá Ôn nhắc lại việc ngày trước vua khai quốc nhà Lê chịu nhận hàng năm đúc người vàng thế thân vì đã trót giết Liễu Thăng, gọi là “nợ Liễu Thăng”, sau đó thực hiện nhưng hai chục năm nay không thấy, vậy từ đây phải tiếp tục.
Mạc Đăng Dung đọc thư nhưng rồi chỉ sai Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan thương thuyết và trao biểu gửi vua Minh. Biểu trần tình lý do trễ nải việc triều cống và xin chiếu theo việc cũ của triều trước, đúc hai người vàng để thế thân. Phần lớn văn thư trao đổi với nhà Minh đều do Thượng thư Hàn Xuyên bá Trần Tất Văn soạn. Lần này cũng vậy. Đọc đến câu: “Cho nước tôi võ nhân ít học, thì lễ nghĩa sao đáng trách móc. Bảo thương dân An Nam vô tội, nỡ nào đem gươm giáo đâm chém?” Mao Bá Ôn không khỏi ngẫm nghĩ nên không tiến quân nữa. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung khen một bài biểu mà lui được vạn binh!
Tình hình lại yên.
*
Thời gian qua, ngoài trường Quốc Tử Giám rộng cửa đón con em các vị đại thần và những học trò giỏi từ các nơi đến học, nhà vua còn khuyến khích các vị đại khoa đương triều tối về dạy học ở nhà để đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước nên chưa bao giờ kỳ thi Hương lại nô nức như kỳ thi năm Đinh dậu (1537). Nguyễn Bỉnh Khiêm lần này có hai học trò xuất sắc là Lương Hữu Khánh và Giáp Hải, còn có tên là Giáp Trưng.
Lương Hữu Khánh là con Bảng nhãn khoa Kỷ mùi (1499) Lương Đắc Bằng, triều vua Lê Hiến Tông. Lương Đắc Bằng chính là người ngày trước đã thảo hịch kể tội Lê Uy Mục, giúp Thái sư Nguyễn Văn Lang lật đổ Uy Mục vào cuối năm Kỷ tị (1509), đưa Tương Dực lên ngôi. Tuy nhiên ngay sau đó, lấy cớ có tang thân phụ, Lương Đắc Bằng về Thanh Hoa rồi không lên kinh nữa, ở nhà mở trường dạy học, năm sau nhà vua gọi trở về triều, ông quyết không về, chỉ dâng vua “Sách lược trị bình” gồm 14 điều, như: chân chính, hiếu thảo, xa thanh sắc, tránh gian nịnh, khen thưởng đúng mức, chú ý pháp độ, lo cho dân yên ổn… Nghe tiếng Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từ Vĩnh Lại, Hải Dương vào tận Thanh Hoa theo học. Hơn 20 năm sau lại đến lượt Lương Đắc Bằng cho con mình từ Thanh Hoa ra theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm. Kỳ thi Hương ấy Lương Hữu Khánh đỗ giải nguyên, Giáp Hải đỗ á nguyên, trường thi Hải Dương. Sĩ tử ai cũng tin với tài học của họ, vào thi Hội, thi Đình, ngôi Trạng nguyên, Bảng nhãn nhất định không tuột khỏi tay họ.
Quả nhiên, năm sau, năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1538), vào thi Hội, Lương Hữu Khánh trúng Hội nguyên, Giáp Hải đỗ thứ hai. Đến khi giáp phách, lúc này các giám khảo mới biết Lương Hữu Khánh là người Thanh Hoa mà Thanh Hoa lại là nơi suốt bao nhiêu năm nay nhiều người theo Nguyễn Kim chống lại nhà Mạc, vì vậy họ quyết định đưa Giáp Hải lên đỗ Hội nguyên, đánh tụt Lương Hữu Khánh xuống thứ hai. Quá bất bình, Hữu Khánh bỏ thi Đình, trở về Thanh Hoa. Đoán thể nào Hữu Khánh cũng theo Nguyễn Kim, quân Mạc ráo riết tầm nã và chặn đường vào Thanh Hoa của Hữu Khánh nhưng Hữu Khánh khôn ngoan đi bằng đường biển nên thoát được.
Thi Đình, Giáp Hải không còn “đối thủ” nên đỗ Trạng nguyên. Khoa này lấy được 36 người trúng tiến sĩ. Huyện Nghi Dương những bốn người trúng tuyển, đó là Hoàng Thuyên và Nguyễn Huệ Trạch ở Lê Xá, Bùi Văn Tảo ở Cổ Trai, Bùi Tổ Trứ ở Xuân La. Chuyện ấy tuy làm có xôn xao dư luận nhưng không bằng đề văn thi Đình, đại ý: Hiện nay giặc đang ở ngoài cõi, sĩ tử có kế sách gì hay thì đem ra bàn. Bài cốt lấy ý nên không những cho phép các sĩ tử viết chữ thảo, sau đó sẽ có những người viết chữ đẹp chép lại dâng lên vua đọc, như lệ vẫy vậy mà còn bớt những huý nhẹ để sĩ tử trình bày được nhiều ý kiến.
Giáp Hải có nhiều ý kiến sâu sắc nên đỗ Trạng, chẳng những thế còn được nhà vua chỉ định ngay lập tức dùng những kế sách ấy lên biên giới thương thuyết với Mao Bá Ôn vì mới đây y lại có thư hạch sách rằng Mạc Đăng Dung không làm đúng như những gì y đã nói với Nguyễn Văn Thái: Không thấy dâng sổ sách ruộng đất, không lên Nam Quan chịu tội, bảo đúc người vàng thế thân nhưng không thấy người vàng đâu, chỉ thấy sứ thần Nguyễn Chiêu Huấn mang sang cống lư hương, bình hương, mâm và rùa bằng vàng bạc cùng với 60 cân trầm hương, 148 cân tốc hương! Cùng với thư, Mao Bá Ôn còn thúc quân tiến sát biên cương. Trước khi Giáp Hải lên đường, Thái thượng hoàng dặn thêm:
– Thư trả lời đã viết rõ, nhưng khi lên đấy thương thuyết thể nào Bá Ôn cũng căn vặn, vậy thì thì khanh hãy dùng lý lẽ nói cho y biết: Việc giết Liễu Thăng là do họ Lê chứ họ Mạc không làm việc ấy nên không thể coi là mắc nợ và phải trả nợ. Vả lại ngay từ thời Quang Thiệu, Thống Nguyên, 11 năm liền họ Lê đã không cống người vàng nên coi như lệ ấy chính họ Lê cũng đã bỏ không theo. Họ Mạc là giám quốc nên chỉ xin cống nộp vàng bạc và các thứ theo định số.
Giáp Hải và đoàn sứ giả tới Nam Quan. Viên quan giữ ải không mở cửa cho qua ải, từ trên cao nói xuống rằng quốc vương An Nam không giữ đúng lời hứa nên hai nước chỉ còn cách đánh nhau chứ không còn cách nào khác.
Giáp Hải nói:
– Nếu quý quốc quả muốn vậy thì để tôi về nói với vua nước tôi chuẩn bị binh khí để tiếp đón.
Hai bên đối đáp một hồi lâu, Giáp Hải tỏ ra cứng cỏi nên viên quan giữ ải phải mở cửa cho vào. Giáp Hải tới dinh của Mao Bá Ôn, xưng danh và chào theo đúng lễ nghi. Bá Ôn không nói sao. Giáp Hải giả bộ ngơ ngác nhìn quanh:
– ở đây không có người à?
– Ngươi không có mắt sao?
– à, bây giờ thì có người rồi nhưng toàn người chậm mồm chậm miệng!
– Quan giữ ải nói nếu quân đội thượng quốc tiến đánh thì quốc vương nước ngươi cũng sẵn sàng binh khí để tiếp đón phải không?
– Đấy là tôi nói chứ không phải vua nước tôi nói. Vua nước tôi bao giờ cũng muốn hai bên giao hảo, không bao giờ xảy ra can qua. Bởi can qua thì sinh linh của cả hai bên đều khốn khổ chứ chẳng riêng gì người nước tôi.
– Nước ngươi nhỏ yếu như phận cánh bèo, sao chống nổi với giông bão mà dám ngông cuồng vậy?
– Nước tôi không ngông cuồng nhưng vì thượng quốc dồn ép nên buộc phải ráng sức. Cây bèo tuy nhỏ nhưng khi đã kết thành bè thành mảng thì không giông bão nào làm tan nổi. Lúc đó ngay cả ánh mặt trời cũng không dọi xuống nước được. Giông bão nổi lên bèo tuy có lúc tan nhưng rồi lại hợp. Giông bão cũng vậy thôi, có lúc mạnh lấn lướt nhưng cũng có lúc chỉ còn như gió thoảng chưa chắc đã làm rung nổi ngọn cỏ.
Mao Bá Ôn bỗng cười ha hả:
– Ông là Trạng nước Nam, chữ nghĩa chắc cũng đủ, nhân đang nói chuyện về cây bèo với gió bão, tôi có bài thơ vịnh cây bèo, nay xin đọc để ông hoạ chơi.
Mao Bá Ôn đọc đến đâu, quan thư lại chép đến đấy rồi đưa cho Giáp Hải; Giáp Hải đưa mắt lướt qua rồi đặt bút viết một mạch, không cần nghĩ ngợi nhiều và trao cho người thư lại để đưa cho Mao Bá Ôn (***). Mao Bá Ôn đọc xong, không nói gì, mặt hơi biến sắc, gạt bài thơ sang một bên và bảo:
– Nhà Lê đã được thượng quốc sắc phong có nghĩa là đã danh chính ngôn thuận. Nay quốc vương nước ngươi làm chuyện thoán đoạt, đã không biết tội lại còn không cả triều cống suốt 20 năm trời. Sau đó nhận lỗi, xin được cống nạp thì lại dối trá, chỉ dâng mấy thứ vặt vãnh, không thấy người vàng như đã hứa là thế nào? Sổ sách ruộng đất cũng không thấy nộp là làm sao?
– Việc nộp sổ sách là việc lớn, không thể vội vàng được. Lại càng không thể đem nộp tất cả. Vua Tống ngày trước có nói với vua nước tôi: “Những đất mà nhà Tống chiếm đóng thì sẽ trả cho Giao Chỉ, nhưng những đất mà thủ lĩnh của nó tự theo về thì không thể trả lại được”. Trấn Hưng Hoá nước tôi vốn có hai châu Quy, Thuận. Châu Quy tức là Quy Hoá và Châu Thuận tức là Thuận An. Hai năm Đinh Dậu (1057) và Quý sửu (1073) nhà Tống đánh chiếm hai châu này, gộp châu Quy với đất Vật Dương vốn do Nùng Trí Cao nộp, gộp châu Thuận với đất ác Vật vốn do Nùng Tông Đản nộp. Như vậy vua Tống nói một đằng làm một nẻo, vừa giữ những đất thủ lĩnh chúng tôi tự nộp vừa không trả những đất đã chiếm. Vậy việc đó tính sao? Có phải ép nước tôi quá không? Nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê nước tôi thỉnh thoảng vẫn còn nhắc đến chuyện ấy nhưng không thấy đòi, vậy nên giờ đây vua nước tôi cũng không đòi nữa, cho được danh chính ngôn thuận.
Mao Bá Ôn bảo:
– Quốc vương nước ông thật khôn ngoan. Không chịu mất một tấc đất nào mà lại như là dâng đất. Nhưng dẫu có thế nào thì tôi cũng không có quyền quyết định. Việc này phải được tâu lên triều đình. Nhưng muốn thế thì phải có sổ sách ruộng đất kèm theo. Ông định bắt ta phải làm sổ sách sao?
– Ngài không phải làm gì cả. Tôi có mang theo sổ sách hai châu đó đây. Chúng được giữ rất cẩn thận bao nhiêu năm nay. Để cho cẩn thận, chúng tôi còn sao lại một bản để giữ làm bằng cứ, chỉ phiền ngài ký vào đó một chữ làm chứng.
– Hừ, cứ như hai châu ấy đang thuộc về nước ngươi không bằng! Thế còn đúc người vàng thế thân trả nợ thì sao?
– Biết ngài có tài, được vua nước ngài rất trân trọng, tôi hỏi ngài, xin ngài thực bụng trả lời cho: Theo ngài thì Liễu Thăng có phải là tướng giỏi không?
– Giỏi gì hắn! Trong tay có 10 vạn quân mà chỉ một trận đánh đã thua và bị chết chém!
– Ngài nói rất đúng, Vả lại hồi đó Liễu Thăng có còn sống thì cũng đã chết già từ lâu rồi. Chính vì thấy vô lý nên vua Quang Thiệu và Thống Nguyên nước tôi quyết bỏ việc đó. Nay họ Mạc chỉ là giám quốc nên cứ thế mà theo.
Giáp Hải vẻ nhún nhường, khẽ đưa mắt về phía người theo hầu:
– Nghe tiếng ngài là danh nho Bắc quốc, nay mới được gặp, thật là hạnh ngộ. Nay tôi có ít lễ vật để tỏ lòng ngưỡng mộ.
Mao Bá Ôn thấy Giáp Hải bày ra những đồ vàng bạc quý giá cùng trầm hương và hoa quả phương Nam liền hoa cả mắt. Y nhìn vào đám hoa quả, cốt làm như không để ý đến những đồ quý giá:
– Quả này là quả gì vậy?
– Nước tôi gọi là vải còn tên chữ của nó là “lệ chi”. Ngày xưa vua Đường Huyền Tông của quý quốc rất thích thứ quả này để chiều lòng Dương Quý phi. Mùa vải năm Giáp ngọ (722), đoàn phu gánh vải nước tôi dọc đường vì khát nước có người vặt lấy một quả, chưa kịp ăn thì đã bị lính Đường đi áp tải đánh trọng thương, lúc khác lại một ông già bị đánh đến chết. Trong đoàn có Mai Thúc Loan, ông này thấy vậy phẫn nộ quá liền đánh trả, chuyện nhỏ thành lớn, sau thành cuộc khởi nghĩa, Mai Thúc Loan xưng vua, gọi là Mai Hắc đế vì ông ấy người đen lắm. Nhà Đường phải mang đại quân sang mới dẹp nổi. Tôi nghĩ, một người gánh vải mà còn làm được chuyện như vậy, kể cũng đáng nghĩ ngợi.
Mao Bá Ôn không nói sao, biết là Giáp Hải nói xa xôi, liền giả cách như không để ý, bóc một quả ăn, khen ngon. Được một lúc, Giáp Hải xin cáo từ, bảo đã sang đến đây mà không đến chào Tổng trấn Lưỡng Quảng không được.
Mao Bá Ôn dâng sớ lên vua Minh, kèm theo sổ sách hai châu Quy, Thuận.
Minh Thế Tông hỏi Thượng thư Bộ Hộ:
– Hai châu ấy là thế nào?
Thượng thư Bộ Hộ nói:
– Xin bệ hạ cho thần được vào thư viện xem bản đồ, sổ sách và đọc các cuốn sử của triều trước thì mới trả lời chính xác được. Nhưng thần nhớ mang máng hình như hai châu này đã thuộc về nước ta từ 500 năm trước rồi thì phải.
Minh Thế Tông bực tức đập bàn:
– Khanh cứ về tra xét cho kỹ rồi tâu đúng sự thật. Nếu quả hai châu ấy đã thuộc nước ta từ lâu thì lại một lần nữa Đăng Dung dối trá, không thể tha được.
—————————————–
(*) Chú thích trong bản dịch Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ): Chuyết Am: Lý Tử Tấn, Vu Liêu: Nguyễn Trực, Tùng Xuyên (chưa rõ ai), Cúc Pha: Nguyễn Mộng Tuân, ông Đỗ: Đỗ Nhuận, ông Trần (chưa rõ ai), ông Đàm: Đàm Thận Huy, ông Vũ: Vũ Quỳnh, ức Trai: Nguyễn Trãi. Đỗ Thiếu Lăng: Đỗ Phủ, nhà thơ đời Đường (Trung Quốc).
(**) Bài thơ bằng chữ Hán, được dịch như sau: “Đại tướng Nam chinh khảng khái sao/ Lưng đeo sáng quắc nhạn linh đao/ Gió lay trống trận sơn hà động/ Chớp nhoáng cờ đồn nhật nguyệt cao/ Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn/ Hang sâu kiến cỏ trốn đằng nào/ Thái bình khi chiếu đòi về nước/ Trẫm cởi dùm ông chiếc chiến bào.
(***) Nguyên văn hai bài thơ bằng chữ Hán, được dịch như sau:
– Bài xướng của Mao Bá Ôn: “Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim/ Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm/ Đã không cành cỗi còn không gốc/ Dám có rễ mầm lại có tim/ Nào biết nơi tan duy biết tụ/ Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm/ Giữa trời giông tố thình lình nổi/ Quét bạt ra khơi hết kế tìm”.
– Bài hoạ của Giáp Hải: “Vẩy gấm ken dày chẳng lọt kim/ Lá liền rễ mọc kệ nông mèm/ Mây bạc không cho soi thuỷ diện/ ánh hồng đâu dễ dọi ba tâm/ Sóng dồn ngàn lớp xô không vỡ/ Gió dập muôn cơn khó đánh chìm/ Rồng cá ít nhiều nương dưới đó/ Cần câu Lã Vọng hết mong tìm”.
Viết bình luận
Tin liên quan
- VỀ VỚI AO DƯƠNG
- LỜI CÁM ƠN GIỚI SỦ HỌC ĐÃ ĐEM LẠI NHỮNG NHẬN THỨC ĐỔI MỚI VỀ NHÀ MẠC –
- CÁC THÔNG ĐIỆP CỦA TIỀN NHÂN TẠI LỄ HỘI NÁ NHÈM –
- THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- LỄ HỘI NÁ NHÈM – QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI –
- CỔ VẬT KỲ SỰ: CÂY ĐÈN GỐM THỜI MẠC CÒN NGUYÊN VẸN
- TRỞ LẠI NƠI XUẤT XỨ BÀI THƠ!
- Chữ hiếu xưa và nay
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.