- Đang online: 1
- Hôm qua: 781
- Tuần nay: 13237
- Tổng truy cập: 3,389,204
SẤM TRẠNG TRÌNH Nguyễn Bỉnh Khiêm và những điều linh nghiệm
- 1328 lượt xem
Sấm Trạng Trình và những điều linh nghiệm
Cuộc sống là một bí mật với quá khứ, hiện tại và tương lai vừa vận động theo quy luật vừa có những ngoại lệ khó đoán định nên chỉ thời gian mới có câu trả lời xác quyết nhất cho những chiêm tinh dự đoán của con người. Nhưng thời gian cũng là một bí mật. Thế nên có những kẻ hậu sinh vẫn đang truy tìm cuốn Thái ất thần kinh đã thất truyền mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thường vận dụng trong các tiên đoán của mình về thời cuộc để những mong biết trước được vận mệnh, nhân tình thế thái nhằm ứng xử sao cho ích lợi cả đôi đường, vừa mưu cầu cái lợi ích chính đáng lẫn cái mưu đồ đen tối trong biến thiên cuộc đời mình tùy theo trí lự và tâm tính họ…
“Thế sự ngàn năm sau trước rộng dài/Có tiếng sấm truyền vang đi trên đất”. Cuốn sách Thái ất thần kinh đó chắc hẳn chứa đựng rất nhiều “bí kíp tuyệt luân” trong lĩnh vực tiên tri, chiêm tinh của con người và những ứng dụng trong đời sống cá nhân, cộng đồng. Nhưng cuốn sách đó dù hay ho đến thế nào đi chăng nữa cũng chỉ như một phép thuật mà thôi. Việc sử dụng phép thuật đó như thế nào mới là điều quan trọng. Khi rơi vào tay kẻ ác, nó sẽ trở thành ma thuật và làm hại nhiều người. Khi gặp được chân nhân, nó sẽ lan tỏa sức mạnh kỳ diệu của mình, giúp cho cuộc sống của chúng dân nhiều phúc lợi an lành hơn.
Trong tay Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm cuốn Thái ất thần kinh đã đắc dụng. Tương truyền, thầy của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Lương Đắc Bằng, một người tinh thông lý số đã đem sách này ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng chưa hiểu hết được và chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau mới tinh thông, do nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh.
Sinh trưởng trong một gia đình danh giá, có học vấn ở làng Trung Am (xã Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng) nên Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm được thừa hưởng tinh hoa truyền thống gia tộc. Ông ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm, vị khoa bảng Nhữ Văn Lan được coi là vị tổ của họ Nhữ ở làng An Tử Hạ, Tiên Lãng, đỗ tiến sĩ năm 1463, đời Lê, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hộ. Cha mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đều là những người có văn tài học hạnh.
Tương truyền, thân mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà Nhữ Thị Thục, một bậc nữ lưu tài hoa chốn kinh thành giỏi giang văn chương và tinh thông lý số đã hơn một lần gieo cầu đoán sẽ đẻ ra vua. Thế nên ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, năm 1491, lại thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc sức nuôi dạy con trai để trở thành một tài năng kiệt xuất giúp nước cứu đời. Niềm thôi thúc mạnh mẽ ấy đã khiến bà sớm tìm được người thầy có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng về dạy cho Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Với trí tuệ thông minh mẫn tiệp từ nhỏ nay lại gặp được thầy giỏi nên Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng khác gì rồng gặp được mây. Và rồi thầy cũng hết chữ để dạy trò, khi chính ông đã vượt xa thầy qua cuốn Thái ất huyền hoặc kia.
Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến bấy giờ gây ra, mãi đến năm 44 tuổi, năm 1535, ông mới đi thi và đỗ đầu ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình và đỗ Trạng Nguyên. Cái tài học vấn uyên thâm của ông, sự thông tuệ của ông đã đắc dụng sau này khi ông sử dụng vào chính sự trên gốc rễ nhân dân. Sở học của ông đã phát huy tối đa sau này khi ông áp dụng vào những sự kiện chính trường đầy biến động của đất nước.
Với minh tuệ của mình, với trình độ thâm nguyên lý học của mình, ông được triều đình nhà Mạc và các sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu và dân gian gọi ông là Trạng Trình. Người đời sau, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp coi ông là người có tài “huyền cơ tham tạo hóa”.
Sinh ra với tướng mạo khác thường nhưng không có khí chất thiên tử nên ông không thể làm vua. Nếu lên ngôi chắc hẳn Đại Việt sẽ có một đấng minh quân và nhân dân không phải loạn lạc. Không làm vua thì ông làm một Khổng Minh quân sư cho cả ba thế lực chính trị đương thời tạo ra thế chân vạc kìm tỏa lẫn nhau mà không rơi vào hỗn chiến tam quốc, một cách ích lợi nhất cho muôn thảo dân, tránh được những cuộc chiến đầu rơi máu chảy, nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Không là vua nhưng ông có thể thiết kế chính trường. Những tính toán của ông, những đường đi nước bước của ông trên bàn cờ cuộc thế đã được tiên liệu trước.
Xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc nhưng ông có cái nhìn vượt lên trên tầng lớp thượng lưu để hướng về thảo dân bách tính với những nhân ái lớn lao là cuộc sống an lạc, thái bình, thịnh vượng cho mọi người. Điều đó phải là một minh tuệ mới có được. Điều đó phải là một hiền tâm mới làm được. Và chỉ với một câu thơ “Việt Nam khởi tổ xây nền” (câu đầu tiên trong Sấm Trạng Trình mà ông để lại cho hậu thế), Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người đầu tiên sử dụng tên gọi Việt Nam như là quốc hiệu song ông cũng là người sử dụng nhiều nhất và có ý thức nhất danh xưng thiêng liêng này.
Gạt đi tất thảy những huyền du của giai thoại như khi lên một tuổi ông nói mặt trời mọc đằng đông, bỏ qua giai thoại về việc cứu nguy cho hậu duệ thoát nạn sập nhà 500 năm sau khi ông mất… chỉ còn lại cái cốt của giai thoại thì cho thấy ông là người luôn ôm nỗi đau thế sự. Bằng minh tuệ của mình, ông phải luôn trăn trở cái thế, về sự giằng xé giữa các thế lực, về cái thiệt thòi cái phúc lợi của chúng dân là gì khi những mưu đồ được toan lên giữa bàn cờ thế cuộc. Thế nên mới có được nước cờ đắc địa “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” cho Nguyễn Hoàng, “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” cho chúa Trịnh khi đến hỏi kế sách, và “Cao Bằng tuy thiến, khả diên số thế” với nhà Mạc. Thế nên tiếng nói ông mới trở thành tiếng sấm được truyền tụng tới mai sau…
Dẫu là người có thể tiên đoán được biến cố 500 năm sau trước nhờ học phương pháp tính theo Thái ất nhưng ông vẫn phải sống ở thời đại ông, thân thể ông vẫn bó buộc trong cuộc tao ly thế kỷ 15 của Đại Việt. Có thể những lời sấm của ông vẫn còn được tiếp tục giải mã thế nhưng hệ tư tưởng triết học của ông vẫn nằm trong vòng tròn của chủ nghĩa duy tâm chứ không phải là hình xoắn trôn ốc của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Dù vậy thì ông vẫn đạt đến một đỉnh tùng trượng sơn của trí tuệ.
Nơi nào ông ngồi nghiền ngẫm thế cuộc, thiên cơ, quốc vận, có phải bên hàng tùng bách dưới chân núi Cổ Am? Nơi nào là nơi ông ngồi viết sấm ký, nơi nào là nơi ông ngồi viết những vần thơ, có phải bên dòng Tuyết giang vời vợi? Nơi nào ông mở trường lớp dạy học những mong đào tạo cho đời những tài năng kinh bang tế thế khi lui về ở ẩn? Một Bạch vân phu tử hay một Tuyết giang phu tử đang thư nhàn bên suối, bên thông như tiên ông ngồi đánh cờ, câu cá. Ông vẫn đang mải chơi cờ đó ư? Hay ông vẫn đang say nghĩ tiếp những vần xoay con tạo, những quy luật biến thiên của thời cuộc tàn suy thăng giáng và những ngoại lệ của các quy luật đó. Không, ông đang trải lòng mình với những vần thơ. Những câu thơ chắt chiu từ tâm đức ông. “Trạng Trình tỉnh giấc cười ba tiếng/ Quẻ lòng nhân giao mãi chưa thành”. Người ta đồ rằng, sau lúc thiếp mệt, ông chợt tỉnh giấc rồi cười vang lên ba tiếng đắc nhân tâm khi bỗng nghĩ ra điều gì đó có lợi cho chúng dân hay nghĩ ra một câu thơ thần, một câu thơ thiền bừng nở giữa đóa sen.
Sau đây là nội dung Sấm Trạng Trình
SẤM TRẠNG TRÌNH Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chương Nhất
1 – Vận lành mừng gặp tiết lành
2 – Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 – Một câu là một nhiệm màu
4 – Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5 – Trải vì sao mây che Thái ất
6 – Thủa cung tay xe nhật phù lên
7 – Việt Nam khởi tổ xây nên
8 – Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 – Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 – Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 – Đến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 – Mở bản đồ rũ áo chấp tay
13 – Nhự đao phút chốc đổi thay
14 – Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
15 – Đông a âm vị nhi thuyền
16 – Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 – Chấn cung hiện nhật quang minh
18 – Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 – Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 – Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
21 – Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
22 – Dưới lẫn trên n( vẫn uống quen
23 – Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 – Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
25 – Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
26 – Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
27 – Trời sinh ra những kẻ gian
28 – Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 – Áo vàng ấm áp đà hay
30 – Khi sui đấp núi khi say xây thành
31 – Lấy đạc điền làm công thiên hạ
32 – Được mấy năm đất lở giếng mòn
33 – Con yết ạch ạch tranh khôn
34 – Vô già mợ hội mộng tôn làm chùa
35 – Cơ trời xem đã mê đồ
36 – Đã đô lại muốn mở đô cho người
37 – ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
38 – Suốt vạn dân cưu giận nhân than
39 – Dưới trên dốc chí lo toan
40 – Những đua bán nước bán quan làm giàu
41 – Thống rủ nhau làm mồi phú quí
42 – Mấy trung thần có chí an dân
43 – Đua nhau làm sự bất nhân
44 – Đả tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 – Dư đồ chia xẻ càn khôn
46 – Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
47 – Vội sang giàu giết người lấy của
48 – Sự có chăng mặc nọ ai đôi
49 – Việc làm thất chính tơi bời
50 – Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
51 – Xem tượng trời đả gia ra trước
52 – Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
53 – Cuồng phong cả sớm liền trưa
54 – Đả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55 – ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
56 – Để vạn dân dê lại giết dê
57 – Luôn năm chật vật đi về
58 – Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
59 – Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
60 – Cũng một lòng trời chống khác nào
61 – Xem người dường vững chiêm bao
62 – Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
63 – Một góc thành làm tâm chứng quỷ
64 – Đua một lòng ích kỷ hại nhân
65 – Bốn phương rời rỡ hồng trần
66 – Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
67 – Tiếc là những xuất dân làm bạo
68 – Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
69 – Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 – Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 – Hùm già lạc dấu khôn về
72 – Mèo non chi chí tìm về cố hương
73 – Chân dê móng khởi tiêu tường
74 – Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75 – Nội thành ong ỏng hư kinh
76 – Đầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
77 – Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
78 – Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
79 – Quốc trung kinh dụng cáo không
80 – Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 – Gà đâu sớm gáy bên tường
82 – Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
83 – Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 – Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85 – Đứng hiên ngang đố ai biết trước
86 – ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
87 – Ai còn khoe trí khoe năng
88 – Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89 – Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90 – Bổng khiến người giá họa cho dân
91 – Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92 – Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93 – Đả nên si Hoàn Linh đời Hán
94 – Đúc tiền ra bán tước cho dân
95 – Xun xoe những rắp cậy quân
96 – Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
97 – Máy hóa công nắm tay dễ ngõ
98 – Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
99 – Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 – Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
101 – Cát lầm bốn bể can qua
102 – Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
103 – Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 – Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 – Bấy gia+ý càng khốn thay ôi
106 – Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
107 – Thương những kẻ ăn rau ăn giới
108 – Gặp nước bung con cái ẩn đâu
109 – Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 – Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
111 – Xin những kẻ hai lòng sự chúa
112 – Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
113 – Cho nên phải báo trầm luân
114 – Ai khôn mới được bảo thân đời này
115 – Nói cho hay khảm cung rồng dấy
116 – Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
117 – Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 – Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
119 – Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
120 – Thì phụ nguyên mới chỗ binh ra
121 – Bốn phương chẳng động can qua
122 – Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
123 – Bấy gia+ý mở rộng qui khôi
124 – Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125 – Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
126 – Hoàng phúc xưa đã định tây phong
127 – Làu làu thế giới sáng trông
128 – Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
129 – Rỏ sinh tài lạ khác thường
130 – Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
131 – Xem ý trời có lòng đãi thánh
132 – Đốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
133 – Chọn đầu thai những vì sao cả
134 – Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 – Bắc phương chính khí sinh ra
136 – Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
137 – Song thiên nhật rạng sáng soi
138 – Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
139 – Đời này thánh kế vị vương
140 – Đủ no đạo đức văn chương trong mình
141 – Uy nghi trạng mạo khác hình
142 – Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
143 – Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
144 – Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 – Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 – Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
147 – Ở đâu anh hùng hẳn biết
148 – Xem sắc mây đã biết thành long
149 – Thánh nhân cư có thụy cung
150 – Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 – Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 – Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 – Học cho biết lý kiết hung
154 – Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 – Hễ trời sinh xuống phải thì
156 – Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 – Kìa những kẻ vội lòng phú quí
158 – Xem trong mình một thí đều không
159 – Ví dù có gặp ngư ông
160 – Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
161 – Xin khuyên đấng thời trung quân tử
162 – Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
163 – Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
164 – Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165 – Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
166 – Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
167 – Võ thông yên thủy thần kinh
168 – Được vào trận chiến mới càng biến cơ
169 – Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170 – Biết ray tay miệng biếng nói không
171 – Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 – Công danh choi chói chép trong vân đài
173 – Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 – Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175 – Nặng lòng thật có vĩ kinh
176 – Cao tay mới gẫm biết tình năm nao
177 – Trên trời có mấy vì sao
178 – Đủ no biền tướng anh hào đôi nơi
179 – Nước Nam thường có thánh tài
180 – Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
181 – So mấy lời để tàng kim quỉ
182 – Chờ hậu mai có chí sẽ cho
183 – Trước là biết nẻo tôn phò
184 – Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185 – Xem đoài cung đến thời bất tạo
186 – Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
187 – Nguôi lòng tham tước tham giàu
188 – Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 – Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 – Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
191 – Ai lấy gương vua U thủa trước
192 – Loạn ru vì tham ngược bất nhân
193 – Đoài phương ong khởi lần lần
194 – Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 – Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 – Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
197 – ấy là những binh thù Thái Thái
198 – Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
199 – Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 – Tái binh mới động thập thò liền sang
201 – Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
202 – Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
203 – Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 – Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205 – Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
206 – Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
207 – Thành câu cá, lửa tưng bừng
208 – Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 – Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 – Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
211 – Sang thu chín huyết hồng tứ giả
212 – Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
213 – Đua nhau đồ thán quần lê
214 – Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 – Kẻ thì phải thủa hung hoang
216 – Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
217 – Kẻ thì mắc thửa hung tàn
218 – Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
219 – Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 – Điều thì làm chước xuất binh thủ thành
221 – Bời bời đua mạnh tranh giành
222 – Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 – Bể thanh cá phải ẩn cây
224 – Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225 – Nào ai đã dễ nhìn U
226 – Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
227 – Cây bay lá lửa đôi ngàn
228 – Một làng còn mấy chim đàn bay ra
229 – Bốn phương cùng có can qua
230 – Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
231 – Đoài phương thức có chân nhân
232 – Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
233 – Tìm cho được chốn được nơi
234 – Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
235 – Bốn bề núi đá riễu quanh
236 – Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
237 – Hễ đông nam nhiều phen tàn tạc
238 – Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
239 – Bắc kinh mới thật đế kinh
240 – Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 – Chim hồng vỗ cánh bay cao
242 – Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
243 – Ai dễ cứu con thơ sa giếng
244 – Đưa một lòng tranh tiếng dục nhau
245 – Vạn dân chịu thủa u sầu
246 – Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
247 – Cấy cày thu đãi thời mùa
248 – Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 – Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 – Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
251 – Xem tượng trời biết đường đời trị
252 – Gẫm về sau họ Lý xưa nên
253 – Dòng nhà để lấy dấu truyền
254 – Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255 – Thần qui cơ nổ ở trời
256 – để làm thần khí thủa nơi trị trường
257 – Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
258 – Sông Bảo Giang thiên định ai hay
259 – Lục thất cho biết ngày dày
260 – Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
261 – Có thầy nhân thập đi về
262 – Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
263 – Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp
264 – Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265 – Ra tay điều chỉnh hộ may
266 – Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 – Lọ là phải nhọc kéo quân
268 – Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
269 – Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270 – Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
271 – Ân trên vũ khí vân hành
272 – Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
273 – Bản đồ chảng sót cho ai
274 – Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275 – Vấn nền vương cha truyền con nối
276 – Dõi muôn đời một mối xa thư
277 – Bể kình tâm lặng bằng tờ
278 – Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 – Au vàng khỏe đặt vững chân
280 – Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
Chương Nhì
281 – Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 – Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 – Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 – Từ đinh đổi đời chí lục thất gian
285 – Một thời có một tôi ngoan
286 – Giúp trong việc nước gặp an thái bình
287 – Luận chung một tập kim thời
288 – Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
289 – Trượng phu có chí thời coi
290 – Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
291 – Tài nầy nên đấng vẻ vang
292 – Biết chừng đời trị biết đường đời suy
293 – Kể từ nhân đoản mà đi
294 – Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
295 – Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 – Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 – Thử cho tay giúp ra dùng
298 – Tài này so cùng tài trước xem sao
299 – Trên trời kể chín tầng cao
300 – Tay nghe bằng một ti hào biết hay
301 – Hiềm vì sinh phải thời này
302 – Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
303 – Hợp đà thay thánh nghìn tài
304 – Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305 – Nói ra thì lậu sự đời
306 – Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 – Nói ra ám chúa bội quân
308 – Đương thời đời trị xoay vần được đâu
309 – Chờ cho nhân đoản hết sau
310 – Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 – Trời xui những kẻ ắt gian
312 – Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
313 – Vua nào tôi ấy đã bày
314 – Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 – Đua nhau bội bạn nghịch vi
316 – ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
317 – Tiếc tài gẫm được thời hay
318 – Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 – Tài trai có chí anh hùng
320 – Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
321 – Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 – Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 – Đi tìm cho đến đế cung
324 – Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
325 – Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 – Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 – Chờ cho động đất chuyển trời
328 – Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
329 – Còn bên thì náu chưa xong
330 – Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 – Đời ấy những quỉ cùng ma
332 – Chẳng còn ở thật người ta đâu là
333 – Trời cao đất rộng bao xa
334 – Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 – Dù trai ai chửa biết tường
336 – Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 – Ý ra lục thất gian nay
338 – Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 – Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 – Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
341 – Vua ngự thạch bàn xa thay
342 – Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 – Gà kêu vượn hót vang lừng
344 – Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345 – Nhân dân vắng mạt bằng tờ
346 – Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 – Vua còn cuốc nguyệt cày mây
348 – Phong điều vũ thuận thú rày an dân
349 – Phong đăng hòa cóc chứa chan
350 – Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 – Chính cung phương khảm vầng mây
352 – Thức thay thiên tử là nay trị đời
353 – Anh hùng trí lượng thời coi
354 – Công danh chấn ngại tìm đòi ra đi
355 – Tìm lên đến thạch bàn khê
356 – Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
357 – Nhìn đi nhìn lại cho tường
358 – Chửa có sinh vương đâu là
359 – Chẳng tìm thì đến bình gia
360 – Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
361 – Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
362 – Tả long triều lại có thành đợt vây
363 – Hữu hổ quấn khúc giang này
364 – Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
365 – Ở xa thấy một con voi
366 – Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
367 – ấy điềm thiên tử về chầu
368 – Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
369 – Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370 – Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 – Đến đời thịnh vượng còn lâu
372 – Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 – Khuyên cho đông bắc nam tây
374 – Muốn làm tướng súy thì xem trông này
375 – Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
376 – Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 – Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 – Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
379 – Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380 – Rung bắc sang nam đông tới tây
381 – Tan tác kiến kiều an đất nước
382 – Xác xơ cổ thụ sạch am mây
383 – Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 – Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385 – Một gió một yên ai sùng bái
386 – Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
387 – Con mùng búng tít con quay
388 – Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 – Nhà cha cửa đóng then cài
390 – Mầm sấm động hỏi người đông lân
391 – Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 – Biết rằng ai có du phần như ai
393 – Bắt tay nằm nghĩ dông dài
394 – Thương người có một lo hai phận mình
395 – Canh niên tân phá
396 – Tuất hợi phục sinh
397 – Nhị ngủ dư bình
398 – Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
399 – Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 – Mã đề dương cước anh hùng tận
401 – Thân dậu niên lai kiến thái bình
402 – Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 – Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 – Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 – Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 – Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 – Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 – Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 – Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
410 – Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 – Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 – Chức đáo dương đầu mã vĩ
413 – Hồ binh bát vạn nhập trường an
414 – Bảo Giang thiên tủ xuất
415 – Bất chiến tứ nhiên thành
416 – Lê dân bảo bảo noãn
417 – Tứ hải lạc âu ca
418 – Dục đức thánh nhân hương
419 – Quá kiều cư bắc phương
420 – Danh vi Nguyễn gia tử
421 – Kim tịch sinh ngưu lang
422 – Thượng đại nhân bất nhân
423 – Thánh ất dĩ vong ân
424 – Bạch hổ kim đái ấn
425 – Thất thập cổ lai xuân
426 – Bắc hữu kim thành tráng
427 – Nam tạc ngọc bích thành
428 – Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 – Mục giả dục nhân canh
430 – Phú quí hồng trần mộng
431 – Bần cùng bạch phát sinh
432 – Anh hùng vương kiếm kích
433 – Manh cổ đổ thái bình
434 – Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 – Quá thất thân thủy sinh
436 – Địa giới sĩ vị bạch
437 – Thủy trầm nhi bắc kinh
438 – Kỷ mã xu dương tẩu
439 – Phù kê thăng đại minh
440 – Trư thử giai phong khởi
441 – Thìn mão xuất thái bình
442 – Phân phân tùng Bắc khởi
443 – Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
444 – Bảo sơn thiên tử suất
445 – Bất chiến tự nhiên thành
446 – Thủy chung tàng bảo cái
447 – Hứa cập thánh nhân hương
448 – Mộc hạ châm châm khẩu
449 – Danh thế xuất nan lương
450 – Danh vi nguyễn gia tử
451 – Tinh bản tại ngưu lang
452 – Mại dử lê viện dưỡng
453 – Khởi nguyệt bộ đại giang
454 – Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 – Hoặc ngụ kim lăng cương
456 – Thiên dử thần thức thụy
457 – Thụy trình ngũ sắc quang
458 – Kim kê khai lựu điệp
459 – Hoàng cái xuất quí phương
460 – Nhân nghĩa thùy vi địch
461 – Đạo đức thực dữ đương
462 – Tộ truyền nhị thập ngũ
463 – Vận khải ngũ viên trường
464 – Vận đáo dương hầu ách
465 – Chấn đoài cương bất trường
466 – Quần gian đạo đanh tự
467 – Bách tính khổ tai ương
468 – Can qua tranh đấu khởi
469 – Phạm địch tánh hung hoang
470 – Ma vương sát đại quỉ
471 – Hoàng thiên tru ma vương
472 – Kiền khôn phú tải vô lương
473 – Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 – Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 – Đảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 – Ta hồ vô phụ vô quân
477 – Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 – Đoài phương phước địa giáng linh
479 – Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 – Phá điền thiên tử giáng trần
481 – Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
482 – Trần công nải thị phúc tâm
483 – Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 – Tướng thần hệ xuất y chu
485 – Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 – Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487 – Đông tây vô sứ nam thành quốc gia
Nguồn: http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanchuong/samtrangtrinh.htm
NĐK st.
Viết bình luận
Tin liên quan
- 10 SỰ KIỆN TIÊU BIỂU TRONG HOẠT ĐỘNG DÒNG HỌ NĂM 2023 CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC HẢI PHÒNG
- Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Cao Bằng tổ chức Hội nghị Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khảo cổ địa điểm thành Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa an; thành Bản Phủ và Di tích Cự Thạch Bản Thảnh xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng-Từ di tích khảo cổ có thể tái hiện thời kỳ Cao Bằng là kinh đô nhà Mạc
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA: “VƯƠNG TRIỀU MẠC TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM”
- NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VƯƠNG TRIỀU MẠC VỚI KINH THÀNH THĂNG LONG
- ĐÀ QUỐC CÔNG – MẠC NGỌC LIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC GỖ VÀ GỐM SỨ THẾ KỶ XVI
- GS.TSKH Phan Đăng Nhật và cuộc hồi sinh sử thi Việt
- ĐÌNH LÀNG TÂY ĐẰNG: Một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật gỗ tuyệt tác, độc đáo, thuần Việt!
- TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH năm 2020.
- TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH năm 2020.
- TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH năm 2020.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.