- Đang online: 1
- Hôm qua: 476
- Tuần nay: 12326
- Tổng truy cập: 3,266,247
“THEN CHẤT”-HOÀNG CÔNG CHẤT- SỰ NGHIỆP PHÁT HUY CỰC ĐIỂM TIỀM LỰC KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA NGƯỜI THÁI TÂY BẮC THẾ KỶ XVIII.
- 1182 lượt xem
GS.TSKH.Phan Đăng Nhật
Hoàng Công Chất gốc họ Mạc, ở quê Nguyên Xá , Vũ Thư, Thái Bình. Hiện nay có chi họ Hoàng Văn (gốc Mạc) hậu duệ trực hệ của cụ Hoàng Công Chất ở thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Nơi đây hiện có mộ của bà Hoàng Thị Chiên, em cụ Hoàng , mộ các cháu cụ Hoàng, con cụ Hoàng Công Toản. Ở Nguyên Xá và quận Dương Kinh, Hải Phòng đều có đền thờ Hoàng Công Chất.
MỞ ĐẦU
1.Theo thần điện Thái thì ở Mường Then (Xứ trời) ngự 12 vị: Then Luông, Then Vi, Then Lôm, Then Chương, Then Thạu, Then Ná, Then Bẩu, Then Chăng…Người Thái ở Tây Bắc tôn xưng Hoàng Công Chất là Then, có nghĩa là nâng ông lên ngôi vị thần linh ở Thiên đường; còn chức vị trần gian của Ngài là Chẩu Luông (Chúa Lớn), điều hành toàn bộ 16 châu mường ở Tây Bắc.
2.. Để hiểu biết rộng hơn về Hoàng Công Chất, độc giả có thể đón đọc thêm ở sách “Phan Đăng Nhật: Đại cương lịch sử nhà Mạc-từ Thái Tổ Mạc Đăng Dung đến Chúa Lớn Hoàng Công Chất, NXB Trí Thức, 2017”.
3. Các mục chính của bài :
-Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XVIII, trước thời kỳ Hoàng Công Chất
– Hoàng Công Chất bảo vệ, hợp nhất và phát triển Tây Bắc
-Tình cảm và ý nghĩ của nhân dân Tây Bắc đối với Hoàng Công Chất.
-Kết thúc, nguyên nhân thành công, bài học lịch sử
I. -Tây Bắc nửa đầu thế kỷ XVIII, trước thời kỳ Hoàng Công Chất .
I.1.Nạn giặc dã hoành hành.
Đến các thế kỷ XVII — XVIII, nhà Lê bước vào thời kỳ suy yếu và khủng hoảng. Lực lưọ’ng của triều đình lúc đó chủ yểu là dốc vào việc đàn áp tiêu diệt dư đảng nhà Mạc ngoài Bắc, đối địch với chúa Nguyễn ở Đàng trong, và đổi phó với các cuộc nông dân khởi nghĩa ở khắp nơi trong nước. Ảnh hưởng triều đình vì vậy bị giảm sút rất nhiều ở các miền biên giới, đặc biệt ở miền Tâv bắc Việt nam. Ở đâv, các chúa Thái cát cứ ở từng địa phương, nhiều khi đã lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương miền xuôi để chống lại triều đình. Nhất là từ thế kỷ XVIII, miền Tây bắc càng bị uv hiếp nghiêm trọng, phần do âm mưu bành trướng thế lực của các chúa phong kiến Lào, phần do các đám giặc từ Trung quổc tràn xuống. Các quan lại phong kiến Trung quốc từ Vân nam cũng nhân cơ hội tìm cách lấn dần đất ở miền phủ Yên tây , tức miền sáu châu (Hoàng nham, Tùng lăng, Tuv phụ, Hợp phì, Lỗ tuyền và Khiêm châu) không biết mất vào Trung quốc lúc nào. Nhà Lê đã nhiều lần xin lại triều đình nhà Thanh, mãi đến đời vua Bảo thái, nhà Thanh mới sai tổng đốc Vân Quý là Ngạc Như Thái hợp đồng với ta lấy sông Chế chu(?) làm giới hạn. Sáu châu trên ỏ’ về phía tây sông đó thuộc về xứ Hưng hóa , Việt nam. Nhưng sau triều đình lại bỏ mặc vùng này không quản lý nên các tù trưởng ở đây lúc theo Thanh lúc theo Việt. Thế là phần lớn tỉnh Lai châu và một hai châu của tỉnh Sơn la bị mất. Ớ nội địa Tây bắc vùng sông Đà và sông Hồng, giặc Giẳng (3) và giặc Hỏ (4) tràn sang cướp phá. Ở miền Điện-biên, người Phẻ (5) từ mạn Thưọ’ng Lào và nam Vân-nam tràn về đánh đuối người Lự (vẫn ở đó từ trước) đế chiếm đất, rồi tràn ra cướp phá các vùng xung quanh. Người cầm đầu là Phạ chẩu (6) Tin Tòng. Giặc đi đến đâu chém giết đổt phá đến đó, nhân dân tan tác bỏ bản mường, chạy vào rừng sâu, hoặc kéo nhau đi nơi khác.
Lúc đó ở Sơn la, một tù trửơng Thái đen, chúa đất ở Mường la tên là Bun Phanh đã đánh đuổi được giặc Giẳng và giặc Hỏ từ phía sông Hồng tràn sang. Nhưng ở vùng trên, giặc Phẻ vẫn là mối uv hiếp lớn đổi với nhân dân toàn Tây bắc. Tội ác của giặc không sao kể xiết, ở Điện biên hiện có một số địa danh còn ghi lại kỷ niệm đau đớn của nhân dân dưới thời giặc Phẻ xâm lược như cánh đồng cạnh đồi Độc lập hiện nav mang tên là Tồng khao vì xưa giặc tới bắt tất cả trẻ con quanh vùng vứt vào vũng trũng tháo nước ngập cho chết hết, sau khi nước rút xác trẻ chết trắng xóa cánh đồng nên gọi là Tồng khao (Đồng trắng) ; cánh đồng Hong cúm (nay là Hồng cúm) mang tên đó là do khi nhân dân chạy giặc vứt các cúm tức các hòm đan hằng tre hay mây đựng các của cải quý giá ở đó ; khe Hong ma tức Khe chó, mang tên đó vì khi có người chạy giặc trong đêm tối vớ lầm chó tưởng là con nên địu đem đi, khi qua khe trên, sờ đến dịu thấy ỉà chó bèn bỏ lại v.v…
Nhiều thủ lĩnh người Thái và các dân tộc khác hô hào nhân dân tổ chức chống cự lại giặc. Nhưng vi sức yếu, họ Ịiên tiếp bị thất bại. Có một sổ chạv sang Mường Puồn (thuộc tỉnh Sầm nưa hiện nay) gặp nghĩa quân của Hoàng Công Chất đóng ở đó.
Hoàng-công-Chất là một lãnh tụ nông dân kiệt xuất ở vùng Sơn nam, nổi lên lừ năm 1739. Sau một thời gian dài hoạt động ở miền đồng bằng liên kết với các cuộc nối dậy của các lãnh tụ nông dân khác như Vũ Đình Dung, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu. Năm 1751, họ Hoàng vào hoạt động ở miền thượng du Thanh Hóa và từ đó tiến quân lên hoạt động ở miền Tây bắc. Khi ở Thượng Lào, được các thủ lĩnh Thái là Ngải và Khanh (1) cầu cứu, Chất đem quân đánh giặc Phẻ cứu dân, bảo vệ miền biên giới tổ quốc.
Giặc Phẻ đóng trong thành Tam vạn (tức thành Xam mứn) (2).Được lực lượng nghĩa quân người Thái và các dân tộc ở địa phương giúp đỡ, nghĩa binh Hoàng Công Chất tiến công bằng hai mũi từ phía châu Sông Mã đánh lên. Trận đánh xẩy ra rất ác liệt. Quân Phê chổng cự rất mạnh, nhưng cuối cùng chúng đã thua to. Quân Chất dồn được chúng vào một địa điểm ở cánh đồng Mường Thanh gọi là Pú vằng; nhưng đến đây giặc đã sử dụng súng to châm mồi thuốc bắn đạn chì ghém làm quân Chất khổng tiến lên được. Trong số quân Chất, có người Lào và người Lự tham gia. Theo sử Điện biên của người Thái !ưu lại, tướng Ngải và Khanh phải bày mưu làm kế trá hàng, đưa bộ phận ngưòi Lào và Lự tới trước thành Phạ chẩu Tin Tòng xin hàng. Phạ chẩu tlưởng thật tiếp nhận. Đêm đến, quân Chất tiến đánh, được bộ phận trá hàng từ trong đánh ra nên đại thắng, chém được Tin Tòng. Tàn quân Phẻ ngược sông Nậm Rốm và Nậm Núa chạy sang Lào (3). Sau trận đánh, miền này máu chảy thành vũng, nên từ đó chỗ chiến trường này mang tên Pú vằng (pú là đồi núi ; vằng là vũng). Sau khi giải phóng được Điện biên, Hoàng Công Chất chiếm thành Tam-vạn, tính cách cố thủ lâu dài đánh lại triều đình dưới miền xuôi. Về sau nhận thấy rằng thành Tam-vạn tuy lớn nhưng cách bố trí phòng thủ lại quá sơ sài, không hợp với các thứ vũ khí lợi hại của thời đó như sung thần công, súng hỏa mai,v..v…, hơn nữa lại chỉ được phòng thủ trước mặt chống quân miền xuôi lên mà phía sau lưng từ Lào sang lại để trống, bèn quyết định xây dựng một tòa thành khác kiên cố hơn. Đó là thành Chiềng Lè (nay thưòng gọi là Bản Phủ) thuộc xã Noong Hẹt, Điện biên, tỉnh Lai-châu. Thành Bản Phủ là kỳ cổng của họ Hoàng, hiện nay còn di tích ỏ’ Điện-biên. Thành rộng 80 mẫu, dưa lưng vào dòng sông Nậm Rốm, có đường thành đắp bằng đất trồng giống tre gai mang từ miền xuôi lên vây kín, bên ngoài có hào sâu rộng 4 — 5 thước, sâu 10 thước. Thành cao 5 thước, rộng từ 4 — 6 thước, trên mặt thành ngựa, voi đi lại được. Thành cỏ bốn cửa tiền, hậu, tả, hữu, ở mỗi cửa có xây một đồn đắp cao, có vọng tiêu và lính canh giữ. Trong thành có khu ngoại vi ỉà nơi linh đỏng. Ở đây, Hoàng Công Chất cho đào tói 133 ao hình dáng khác nhau : vuông, tròn, tam giác, lục giác, bát giác. Hiện nay còn thấy di tích.[1]
I.2.Nội bộ phân ly, chiến tranh khuynh loát nhau liên miên
Người Thái vốn ở Nam Trung Hoa chuyển cư xuống Việt Nam làm nhiều đợt, một trong những đợt được ghi rõ trong sử sách là vào khoảng thế kỷ thứ X, một ngành của Thái đen cùng với thủ lĩnh của họ là Tạo Ngân đã từ thượng lưu sông Thao xuống đến Mường Lò (huyện Văn Chấn, Yên Bái bây giờ), đã chiến đấu và chiến thắng dân bản địa. Đến thế hệ con Tạo Lò là Lạng Chượng đã tiến công lên hướng Tây Bắc. Ông đã đánh chiếm Mường La, Mường Mụa, tiến đến Mường Muổi. Thủ lĩnh Ốc Tuốc chiến đấu quyết liệt, Lạng Chượng lập kế cưới con gái Ốc Tuốc, sau đó giết bố vợ , chiếm Mường Muổi. Tiếp theo ông tiến đánh Mường Thanh, có thể nói việc bình định Tây Bắc của Lạng Chượng hoàn thành một giai đoạn: giai đoạn đánh chiếm Tây Bắc từ tay cư dân bản địa lâu đời.[2] Tuy nhiên, sau đó các thủ lĩnh nội địa Tây Bắc, đánh nhau, tranh giành đất đai của cải ác liệt. Nhiệm vụ của người Thái là chiến đấu thống nhất 16 châu mường, tạo nên cuộc sống bình ổn, để phát triển. Người thực hiện được sự nghiệp này đầu tiên là Ta Ngần.
Sau khi Ta Ngần chết, các dòng quý tộc Thái ở các nơi đã nổi lên xưng hùng, xưng bá. Họ đã huy động sức người, sức của ném vào cuộc tranh chấp để bành trướng thế lực. Từ thế kỷ XV trở đi không có lúc nào lại không xảy ra sự giành giật nhau, thôn tính nhau của các dòng quý tộc , về đất đai, thiên nhiên và cư dân. Rút cục cuối cùng cũng chẳng thế lực nào hợp được toàn bộ các mường, thành một vùng có kinh tế — chính trị thống nhất. Trải lại từ những cuộc đổ máu đó đã đưa lại một đáp sổ lịch sử là hình thức mường mới — mười sáu châu mường đã xuất hiện. Đường ranh giới các châu mường đã dân dần được vạch ra.
Sự tồn vong của Tây Bắc , trước hết của người Thái, là phải thoát khỏi tình trạng xâu xé chém giết nhau trong đồng tộc. Thực ra đây là một thực tế lịch sử mà các dân tộc/tộc người đều trải qua. Sách kinh điển gọi là “thời kỳ dân chủ quân sự” , ở thời kỳ này chiến tranh là thường xuyên .Để đi đến hòa bình, chấm dứt chiến tranh, chỉ có bằng chiến tranh, “chiến tranh là bà đỡ cúa lịch sử”. Đây cũng là tình trạng phổ biến ở khắp Đông Nam Á, kể từ thứ V TCN trở di. Thể chế chính trị xã hội này ở Đông Nam Á được gọi là manđala. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề mandala ở phần sau.
Người Thái ước mơ trở lại thời hợp nhất, thịnh vượng thế kỷ XIV, thời Ta Ngần. Họ mong đợi được như thời Ta Ngần bằng câu thơ : «có khác nào thời Ta Ngần thống trị, mọi mường tới hầu » (cứ dương pang Ta Ngần khốm têng, chu mương má vẩy). Châu mường trung tâm đứng đầu hợp nhất toàn Tây Bắc ấy người Thải gọi là « mường luông » (mường lớn). ((Mường phìa trong» của nó -được gọi là « mường luông cuông phủ )) và «chiềng» của nó được gọi là «phủ». Bởi vậy tên « mường luông cuông phủ» cũng là tên chỉ toàn bộ châu mường lớn đó. Vỉ dụ thời Ta Ngân, Mường Muổi là « mường luông cuông phủ ». Thế kỷ XV trung tâm chuyến về Mường Xang, nên Mường Xang được gọi là «Mường Xang Luông»[3]
Trước Hoàng Công Chất, chỉ có ba thời kỳ với ba thủ lĩnh-Chẩu Luông (Chúa Lớn) anh hùng thực hiện được sự hợp nhất mà lịch sử mong mỏi và đấu tranh đạt đến, (kể cả Ta Ngần đã nêu qua ở trên).
II.Hoàng Công Chất tiêu diệt giặc, giải phóng toàn bộ Tây bắc, hợp nhất 16 châu mường, lên làm Chẩu Luông.
- 1. Hoàng Công Chất giải phóng toàn bộ Tây Bắc
Sau khi Chẩu Luông Bun phanh thất bại, Mường La với tư cách mường luông sụp đổ, lịch sử Thái ở Tây Bắc được đón nhận người anh hùng Chẩu Luông số 4 và cũng là người cuối cùng, là Hoàng Công Chất.
Hoàng Công Chất đến với Tây Bắc trước hết là do nhiệm vụ cứu nhân dân Tây Bắc thoát khỏi nanh vuốt vô cùng tàn ác của giặc Phẻ, một lũ giặc tràn xuống từ Vân Nam. Ở phần trên chúng tôi đã nói qua sự kiện này.
Sauk hi đánh đuổi giặc Phẻ, áiir phóng Mường Thanh, Hoàng Công Chất mang quân đi đánh chiếm lại miền Thập Châu thuộc An Tây xưa đã bị bọn quan lại Trung Quốc, tỉnh Vân Nam cướp đoạt từ trước, tức các châu: Chiêu Tấn (vùng Sìn Hồ hiện nay): châu Quỳnh Nhai; Châu Lai (Mường Lay, Mường Tè, Mường Xo tức Phong Thổ hiện nay). Luân Châu (một phần huyện Tuần Giáo hiện nay và khu vực Mường Mùn) thuộc tỉnh Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện Biên) và các đất Quảng Lãnh, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Toàn, Tuy Phụ, Khiếm Châu nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hoàng Công Chất còn liên kết với nghĩa quân của Lê Duy Mật lúc đó lập căn cứ ở núi Trình Quang, thuộc tỉnh Trấn Ninh. Sử sách cũ chép có nhiều lần hai toán nghĩa quân này liên kết với nhau khống chế suốt một dải miền thượng Thanh Hoá, Nghệ An đến miền Hưng Hoá, tức miền Tây Bắc ngày nay, Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật lại uy hiếp triều đình bằng những cuộc tập kích vào vùng sông Thao, mạn Sơn Tây. Hoàng Công Chất chiếm toàn bộ 12 Châu Thái, tức miền Sơn La, Nghĩa Lộ và Bắc Hoà Bình. Các tù trưởng Thái như: Bun Phanh, Hà Công Ứng và tù trưởng Mường như Đinh Công Hồ chống lại nhưng đều bị thua.
Như vậy, Hoàng Công Chất đã hoàn toàn làm chủ Tây Bắc, các chúa đất người Mường, người Thái cả một dải sông Đà, sông Thao, sông Mã đều thuần phục Ngài và không chịu cống nạp về triều đình nữa. Mường Thanh trở thành khu trung tâm văn hoá, chính trị của đất Tây Bắc.[4]
Sự nghiệp và công trạng lớn của Hoàng Công Chất là, sau khi tiêu diệt giặc Phẻ đã tiếp tục tấn công lực lượng tàn dư, trên toàn bộ Tây Bắc , đánh bại chúng và thống nhất lãnh thổ.
Tổng cộng diện tích do Hoàng Công Chất giải phóng, chưa kể các châu ở Vân Nam, là 32.919,5 km2 (rộng hơn hai tỉnh lớn ở miền Bắc gộp lại, Thanh Hóa+Nghệ An =27.593,4 km2)
Sự kiện giải phóng đất nước càng có ý nghĩa lịch sử lớn khi, lúc bấy giờ, phong kiến Miến Điện, nhân cơ hội ở Việt Nam rối loạn, định xông vào cướp phá. Chiến thắng của Hoàng Công Chất đã kịp thời chận đứng âm mưu của chúng, tránh cho đất nước một phen bị giặc ngoài giày xéo : “Công lao to nhất của Hoàng Công Chất, trong thời gian ở Mường Thanh, là giữ yên bờ cõi của Tổ Quốc, tránh được bọn xâm lăng của người Miến vào những năm 1751-1765, đô hộ toàn vương quốc Luang Prabang và uy hiếp an ninh của các nước bán đảo Đông Dương”[5]
Như vậy, cũng như các Chúa Lớn các thế kỷ trước, Ta Ngần, Xa Khấm Xam và Bun Phanh, sự nghiệp lớn của Hoàng Công Chất là đánh đuổi ngoại xâm và dẹp các chẩu mừơng trong lãnh địa. Đúng như các Chúa Lớn tiền bối, hình ảnh nổi bật của Hoàng Công Chất là một anh hùng chiến trận, bằng tài chiến đấu đã đem lại hòa bình và ổn định cho lãnh thổ.
Đồng thời ông là một thủ lĩnh tổ chức sản xuất, làm ruộng nước giỏi .
Ngoài việc chăm lo đời sống các dân tộc như trên, có tài liệu còn viết, Hoàng Công Chất đã chia ruộng cho dân cày :
« Thế mới phải,
chia nước cho dân uống
Chia ruộng cho dân cày »[6]
Và cụ Hoàng còn đem kiến thức kỹ thuật trồng trọt ở miền xuôi dạy cho nhân dân
« Trong quá trình điền dã, chúng tôi được biết thêm rằng, ngoài những kỳ tích kể trên, Hoàng Công Chất còn là người có công lớn trong việc nâng cao dân trí, đem lại những kiến thức, kĩ thuật cho đồng bào Mường Thanh, dạy dân cách trồng cấy để mùa màng tăng năng suất. Đồng thời, dạy dân biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, xây dựng khối tình đoàn kết giữa các dân tộc Tây Bắc. Hành động đó của Hoàng Công Chất càng khắc sâu thêm bản chất tốt đẹp, luôn vì người khác của ông. Và cũng chính vì thế, ông đã trở thành đức thánh của lòng dân “sống làm tiết nghĩa, chết nên phúc thần”. »[7]
Tóm lại, ngoài sự nghiệp oanh liệt lẫy lừng là đánh đuổi giặc Phẻ từ phương Bắc xuống, giải phóng nhân dân, bảo vệ biên cương ; Hoàng công Chất còn chăm lo đời sống của nhân dân, dạy bảo, hướng dẫn và tổ chức cho dân cày cấy trong sự đoàn kết và hân hoan. Nhân dân các dân tộc vô cùng tự hào, sung sướng và biết ơn.
2.Hoàng Công Chất và thể chế 16 châu mường Tây Bắc, xét trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á
2.1.Khái quát về mandala
Mandala là thể chế chính trị xã hội phổ quát của Đông Nam Á từ thế kỷ thứ V TCN cho đến thế kỷ XVI SCN
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, khoảng từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ III SCN là thời kỳ hình thành của các mandala ở Đông Nam á, từ thế kỷ III đến thế kỷ XVI là thời kỳ phát triển và chuyển biến của các mandala. Chế độ xã hội mandala – một loại chế độ xã hội vừa mang tính tôn giáo vừa mang tính phong kiến ở Đông Nam á. Trước khi có những mandala thì xã hội Đông Nam á còn ở tình trạng bộ lạc với các tù trưởng (chiefdoms). Phù Nam, Lâm ấp, Chân Lạp là những mandala như thế. Mỗi mandala bao gồm một khu vực địa lý dưới sự thống trị, và làm chủ của một vị vương- vừa như nhà vua, vừa là người được tôn sùng như một lãnh tụ về tôn giáo. Nhưng mandala không có một biên giới nhất định; ranh giới của nó rất co giãn, nó thường xuyên thay đổi (fluid) tùy theo sức mạnh và tầm ảnh hưởng của nhà vua thống trị. Mandala chưa phải là một quốc gia, một nước có chủ quyền, có quy luật truyền ngôi, có biên giới rõ rệt.”[8]
Và như thế mandala rất khác với thể chế phong kiến mà hình ảnh ở phương đông là các triều đại vua chúa Trung Hoa. Dần dần người ta nhận ra sự sai lầm là rập khuôn Đông Nam Á với Trung Hoa.
Theo tôi trước hết sự sự lầm lẫn liên quan đến tên gọi : “vua”, “vương”, “vương quốc”. Giáo sư Trần Quốc Vượng đã chỉ ra sự sai lầm đó:
“Các nhà viết sử Trung Hoa về Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp thường đưa ra một hình ảnh sai lệch, theo mô hình chính quyền quan liêu tập quyền thời Tần Hán – để mô tả các nước này – rằng , cũng như Trung Hoa từ Tần Hán là các vương triều thống nhất, tập trung. Mấy chục năm nay những nghiên cứu mới chẳng hạn của Claude Jacques, O.W. Wolters… đã chứng minh rằng đó là một hình ảnh sai lầm. Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp… thậm chí cả “Văn Lang”, “Âu Lạc” nữa là một khối liên hiệp có nhiều nét tương đồng
về văn hóa của nhiều tiểu quốc đa tộc (cố nhiên là có tộc chủ thể). GS O.W. Wolters dùng khái niệm mandala để chỉ các thực thể này và mệnh danh những thủ lĩnh là “man of proess” (người dũng mãnh). Học trò ông GS.TS Keith Taylor thì gọi các thủ lĩnh (ví dụ Lạc tướng là “lord” và người thủ lĩnh tối cao (như vua Hùng) là “overlord”). »[9]
2.2.“Mười sáu châu mường”, có thể coi là một kiểu mandala ở Tây Bắc Việt Nam.
2.2.1. Mô hình thể chế xã hội Thái[10]
Lấy Mường La ,( Tây Bắc ) làm điển hình, Cầm Trọng chỉ ra rằng, mô hình cư trú của người Thái ở Tây Bắc là hướng tâm, coi trọng trung tâm, không coi trọng biên giới, biên giới biến động và lỏng lẻo.
“Mường” hay “Viềng” là trung tâm nên mọi thành viên trong “mường” đều có nhiệm vụ baỏ vệ nó. Theo tập quán pháp/luật tục, hàng năm đất mường sẽ cúng linh hồn và vận mệnh của “mường” (xên mường). Khi có giặc thì phải bảo vệ “mường” hoặc “chiềng”, vì mất nơi trung tâm coi như mất tất cả đất ‘mường” [11]
Tóm lại, thể chế 16 châu mường của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam có những đặc điểm sau:
-Mô hình cư trú theo vòng tròn, coi trọng trung tâm, có trung tâm nhỏ và trung tâm lớn, các trung tâm nhỏ quy thuộc vào trung tâm lớn. không coi trọng ngoại biên.
-Tình huống thường xuyên là 16 châu mường độc lập và đánh nhau liên miên để tranh giành đất đai, của cải, nhân lực.Lịch sử thường xuyên chinh chiến đã đi vào tên gọi các chức dịch như đã nêu trên. Mục tiêu lịch sử rất hệ trọng là hợp nhất 16 châu mường vào một mối, đặt dưới quyền thống lĩnh của môt Chúa Lớn, nhưng 4 thế kỷ chỉ có 4 thủ lĩnh được tôn làm Chúa Lớn, trong một thời gian ngắn, rồi lại trở về tình trạng phân tranh chém giết nhau.
Người Thái mới đến Tây Bắc từ thời Lạng Chượng, so với các dân tộc khác, ngoài việc chiến đấu để hợp nhất lãnh thổ, còn phải chiến đấu quyết liệt với các dân tộc bản địa lâu đời, giành lấy đất của họ, tình trạng chiến tranh càng nặng nề.
-Với những đặc điểm trên, “mười sáu châu mường” là một thể chế gần gũi với mandala Đông Nam Á, chưa phải là một quốc gia phong kiến, kiểu Trung Hoa hoặc Đại Việt.
Có thể đối chiếu về tên gọi như sau:
-Mandala tương đương với mường lớn Tây Bắc, xã hội Chămpa cổ đại là một mandala, trước đây quen gọi là vương quốc, đó là thói quen kéo cơ chế xã hội Đông Nam Á về phía cơ chế tổ chức phong kiến Trung Hoa, cần thay đổi.
-Nagara tương đương với mường nhỏ. Tây Bắc có 16 mường nhỏ.
III.Tình cảm và sự sùng kính của nhân dân Tây Bắc đối với Hoàng Công Chất.
Nhân dân Tây Bắc gọi Hoàng Công Chất là “Then Chất” (tạm dịch là “Thánh Chất”) với ý vô cùng tôn kính, sánh với các 12 vì Then ở Mường Trời. “Quăm tô Mương” gọi ông là “vua Hoàng”.[12] Sách Quăm to mương (sử người Thái ở Tây Bắc) của Cầm Trọng, Cầm Quynh có ghi: “Vua Hoàng cùng với Phìa Chu kéo quân lên đánh giặc Phẻ” [13]
Tinh thần sùng kính được thể hiện ở việc thờ Ngài theo hai phong tục, phong tục Thái và phong tục miền xuôi
1. Thờ cúng theo phong tục Thái-lễ xên mường
Lịch sử Thái có ghi lại xên mường xuất hiện từ thế kỷ 13, tiếp tục được tổ chức hàng năm cho đến năm 1956 thì đứt đoạn, đến năm 2012 bắt đầu tổ chức lại.
Chúng ta sẽ thấy trong lễ lớn này , Hoàng Công Chất và công trạng của Ngài được cúng ở 2 điểm , cùng với Lạng Chượng, thủ lĩnh Thái có công lớn ở Tây Bắc:
a.Đông xên Chiềng Lé: thờ thủ lĩnh Hoàng Công Chất , tướng Ngải, tướng Khanh và các tướng lĩnh khác của Hoàng Công Chất.(PĐN in đậm)
b. Đông xên Pú Văng (dưới Tà pố): thờ đồng bào bào bị giặc giết tập thể, lưu giữ chiến công Hoàng Công Chất bắt sống được giặc Chẩu Phạ Tin Tòng (PĐN in đậm)
Lễ cúng Chúa Lớn Hoàng Công Chất ở Mường Thanh năm 1941.
2.Thờ phụng theo nghi lễ vùng châu thổ sông Hồng
Tượng thờ Chúa Lớn Hoàng Công Chất và các tướng sỹ hiện nay ở Điện Biên
3. Được đưa vào Mo Páo khuôn, một sụ tôn vinh đặc biệt và hiếm thẩy
Chúng tôi tập hợp đươc ba dị bản thơ ca dân gian ca ngợi Chúa Hoàng Công Chất và thành Chiềng Lề. Riêng về số lượng đã chứng tỏ sự kính phục của nhân dân. Hơn nữa nội dung đều một mực ca ngợi:
1.Thành Chiềng Lề, một công trình xây dựng vô cùng hoàng tráng, thực sự đây là một công trình hiếm có vào thế kỷ XVIII:
+Thành to thành đẹp/ Thành vững đứng giữa cánh đồng/ Giặc nào chẳng khiếp vía/ Hào vây quanh thành, sâu hơn 10 sải/ Mặt thành rộng hai chục sải tay/ Ngựa đi, voi chạy, lính đứng gươm trần sáng loáng/ Chúa cưỡi ngựa trên mặt thành uy nghiêm (Bản Lường Văn Ún)
2.Chúa đã hết lòng vì dân , ra sức chăm lo đời sống nhân dân:
+ Chúa người Kinh xây thành để tiếng tăm đến đời sau/ Thế mới phải,/ Chia nước cho dân uống/ Chia đất cho dân cày (Bản Lò Thị Dót)
+ Chúa cho ta nước uống ,ta được uống /Chúa cho ta cơm ăn, ta được ăn/ Chúa bảo ta đắp thành, ta xây, ta đắp/ (Bản Lường Văn Ún)
3.Chúa co tiếng tăm vang vọng khắp trong và ngoài Tây Bắc:
+Dưới xuôi có vua/ Trên này có chúa/ Những miền từ Mường Puồn ,/ Châu Ét (Sầm Nưa) /Từ Đà Bắc, Chợ Bờ /Lại từ phía Xo, Là đổ lại (Vân Nam, Phong Thổ)/ Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh (Bản Lường Văn Ún)
+ Ai ơi, có mắt hãy mở trông cho kỹ/ Người Kinh cùng người Hán Người Thái với người Lào người Xá/ Vui vẻ cùng nhau tay làm miệng hát (Bản Lường Văn Ún)
Trong số các bản trên có dị bản Lường Thị Đại là một bài mo Tìm hồn (mo Páo khuôn) là một văn bản thiêng của người Thái, ít khi nhân vật lịch sử được ghi vào đây:
Đến với chủ Chiềng Lé (Bản Phủ)
Chiềng Lé có hàng rào tre gai
Từ khi Công Chất lên làm chúa Mường Thanh
Lập nên thành luỹ cao có tiếng để đời
Ông tìm nơi cho dân ở
Ông tìm đất cho dân đào
KẾT THÚC
1.Hoàng Công Chất đã bảo vệ đất nước, đánh tan giặc Phẻ, quét sạch chúng , giải phóng toàn bộ Tây Bắc . Trong bối cảnh các chúa Thái, chúa Lự lục đục tranh giành quyền bá chủ trong khu vực, giặc dã lại thường xuyên cướp phá gây bao cảnh tang tóc cho nhân dân; phong kiến Miến Điện, sau khi đã chinh phục được vương quốc Luông Pharabang (1753-1765) và một số quốc gia trong khu vực, đang tìm cách thôn tính Tây Bắc; thì việc Hoàng Công Chất đã kịp thời kéo quân vào đánh đuổi giặc Phẻ có ý nghĩa thật to lớn. (Phạm Viết Thanh: Báo Thái Bình). Ông đã củng cố được sự thống nhất quốc gia, giành lại những phần đất bị phong kiến Trung Quốc lấn chiếm trước đây, vỗ an được dân chúng…, có thể nói đây là đóng góp lớn nhất của Ông đối với việc bảo vệ vùng biên ải Tây Bắc thiêng liêng của Tổ quốc
2. Hoàng Công Chất đã thống nhất mười sáu châu mường Tây Bắc và được tôn làm Chúa Lớn đem lại ổn định hòa bình cho nhân dân. Đây là một nhiệm vụ lịch sử vinh quang của người Thái ở Tây Bắc, lại là một nhiệm vụ rất khó khăn, trong 4 thế kỷ, từng giai đoạn ngắn, chỉ có 4 nhân vật anh hùng , trong đó có Hoàng Công Chất, thực hiện được, còn thì Tây Bắc tan tác vì chiến tranh
3.Sau khi so sánh, chúng ta có thể coi cơ chế “mười sáu châu mường” là một kiểu mandala ở Tây Bắc Việt Nam. Sự nghiệp chiến đấu của Hoàng Công Chất thuộc về quỹ đạo vận hành của lịch sử Đông Nam Á cổ đại.
4.Và sự nghiệp chiến đấu hợp nhất Tây Bắc của Chúa Lớn Hoàng công Chất và đội ngũ tướng lĩnh của ông đã đưa Tây Bắc từ một vùng yếu đuối, giặc giã liên miên, chiến tranh nội bộ hoàng hành; trở thành một vùng phát triển mạnh mẽ về quân sự, kinh tế; nhân dân sống hòa bình, yên vui, phấn khởi , tự hào “Người Kinh với người Hán . Người Thái với người Lào , người Xá, Vui vẻ cùng nhau tay làm miệng hát” .Qua những trang sử hào hùng này của Tây Bắc, chúng ta có thể rút ra bài học xây dựng và phát triển đất nước như sau:
-Trước hết, quyết tâm đánh đuổi giặc ngọai xâm
-Tiếp theo, phấn đấu thực hiện đúng quy luật lịch sử của xã hội mandala là đánh dẹp các tiểu vùng cát cứ, thống nhất làm một mối dưới sự điều hành chung của một thủ lĩnh, mà đây là Chẩu luông. Điều này đòi hỏi Chẩu luông phải có tài năng, phẩm chất và uy vong lớn, bao trùm tất cả mọi thế lực.
-Đồng thời đòi hỏi “Chúa thật lòng yêu dân. Chúa xây dưng bản mường. Mọi người mới được yên ổn làm ăn”.
5.Với sự đóng góp to lớn như trên, Chúa Lớn Hoàng Công Chất cần được ghi vào lịch sử và vinh danh đúng danh vị mà nhân dân đã tôn xưng ông./.
SƠ LƯỢC TÀI LIỆU THAM KHẢO
– Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H, 1978.
– Đỗ Trường Giang: Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giảquốc tế, Source:https://campapura.wordpress.com
-Đặng Nghiêm Vạn- Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc , Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 75, 1965.
[1] Đặng Nghiêm Vạn-Cầm Trọng:Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc, Tạp chí Nhiên cứu lịch sử 1965, số 81, tr.50-57.
[2] Vương Trung: Táy pú xấc, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003, tr.8-12
[3] Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H, 1978, tr.288.
[4] -Đặng Nghiêm Vạn- Cầm Trọng: Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây Bắc , Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 75, 1965, tr.51.
-Phạm Văn Lực: Hoàng Công Chất với cuộc tiễu trừ giặc Phẻ ở Tây Bắc, app.utb.vn/qlkh/…
– Nguyễn Khắc Thuần: Hoàng Công Chất, VietnamDefence
[5] Phạm Viết Thanh-baothaibinh,com.vn/39/10218hoangcongchat
[6] Lời hát của bà Lò Thị Dót – Bản Phủ – Điện Biên, Đặng Thị Oanh cung cấp, sách Hoàng Công Chất và lễ hội thành Bản Phủ,Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Điện Biên, 2014, tr.41.
[7] Đặng Thị Oanh cung cấp, sách Hoàng Công Chất và lễ hội thành Bản Phủ, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Điện Biên, 2014, tr.25.
[8] a.Bond University ePublications@bond CEWCES Research Papers Centre for East-West Cultural and Economic Studies 1-1-2003 . Mandala: from sacred origins to sovereign affairs in traditional Southeast Asia . Rosita Dellios Bond University, Rosita_Dellios@bond.edu.au
b.Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giả quốc tế
Thứ ba – 08/12/2015 16:17
Tác giả: Đỗ Trường Giang
Viện Nghiên cứu Đông NamÁ, Source: https://campapura.wordpress.com
[9] Trần Quốc Vượng, Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, H., 1998, tr.14.
[10] Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H, 1978, tr.388.
[11] . Cầm Trọng: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1978,tr.332
[12] Xuất xứ: vi.wikipedia.org/wiki/ Hoàng Công Chất.
[13] Cầm Trọng, Cầm Quynh:Quăm tô mương (Truyện kể bản mường), NXB Sử học, H, 1960, tr.5.
Viết bình luận
Tin liên quan
- CHÚC MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11
- THƯ CHÚC MỪNG NGÀY QUỐC TẾ CÁC NHÀ GIÁO
- Vì sao gần một nửa người Việt cùng mang họ Nguyễn
- HỘI THỀ KHÔNG THAM NHŨNG TẠI HẢI PHÒNG – XUÂN KỶ HỢI 2019
- Người Jing (Việt) Trên Đất Trung Hoa
- HAI BÀI THƠ MẠC ĐƯỜNG CẢM TÁC
- LỜI RĂN CỦA TĂNG QUỐC PHIÊN, TỨ ĐẠI DANH THẦN NHÀ THANH TQ
- THÔNG BÁO HỘI NGHỊ THƯỜNG TRỰC MỞ RỘNG HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- Bà Thái Hương – Chủ tịch HĐQT tập đoàn TH: “Chúng ta hãy trân quý Bà mẹ thiên nhiên, Người sẽ cho mình tất thảy”
- HỘI THỀ KHÔNG THAM NHŨNG LÀ DI SẢN QUỐC GIA
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) – Tiểu sử và Sự nghiệp –
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Nghệ An
- NGHỆ THUẬT THỜI MẠC
- Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác “Truyền kì mạn lục”
- CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC THỜI MẠC
- LỊCH SỬ ĐIỆN SÙNG ĐỨC TỔ ĐƯỜNG MẠC TỘC VIỆT NAM
- ĐỊA CHỈ MỘT SỐ DI TÍCH NHÀ MẠC VÀ DANH THẮNG CƠ BẢN Ở TỈNH CAO BẰNG
- THÔNG BÁO CỦA HỘI ĐỒNG MẠC TỘC VIỆT NAM VỀ TRANG WEB “ mactoc.com” MỚI.
- HẬU TÁI ĐỊA DANH CÓ TỪ THỜI NHÀ MẠC
- Danh sách các chi họ Mạc và các chi họ gốc Mạc ở Bắc Giang